Thứ Năm, 27 tháng 2, 2014

Tình hình đầu tư phát triển trong doanh nghiệp Nhà nước, Thực trạng và giải pháp

Quá trình đầu tư phát triển trong doanh nghiệp có những vai trò quan trọng
đến hoạt động sản xuất kinh doanh cảu doanh nghiệp được thể hiện qua các mặt
sau:
Đầu tư phát triển có vai trò rất quan trọng. Đối với nền kinh tế nói chung,
hay đứng trên giác độ vĩ mô đầu tư có tác dụng:
- Tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế.
- Làm tăng trưởng kinh tế.
- Làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- Thúc đẩy đổi mới, phát triển khoa học công nghệ của một quốc gia và của
cả doanh nghiệp.
Còn đứng trên giác độ vi mô, đối với doanh nghiệp:
- Đầu tư phát triển tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp, xã hội liên tục phát triển, nền kinh tế toàn cầu nói chung, nền kinh tế mỗi
quốc gia nói riêng cũng vì thế mà không ngừng vận động phát triển.
Với xu thế hội nhập kinh tế hiện nay thì thị trường ngày càng trở lên sôi
động, nhu cầu của con người ngày càng phát triển đòi hỏi tiêu dùng nhiều hơn
những hàng hoá có chất lượng cao hơn, mẫu mã phải đẹp, đa dạng và phong
phú. Vì thế mà các doanh nghiệp, các nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho thị
trường muốn tồn tại được thì phải đáp ứng nhu cầu đó của dân cư. Muốn như
vậy nhà sản xuất phải tiến hành đầu tư phát triển sản xuất. Ngày càng có nhiều
doanh nghiệp tham gia vào thị trường, muốn cho doanh nghiệp của mình có chỗ
đứng, có khả năng chiếm lĩnh thị trường thì phải tiến hành đầu tư vì chỉ có đầu
tư phát triển đổi mới sản xuất thì doanh nghiệp mới có những sản phẩm mới, sản
phẩm, dịch vụ có chất lượng tốt hơn có khả năng cạnh tranh với các sản phẩm
khác tương tự trên thị trường. Từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp, tạo cho nền kinh tế không ngừng vận động phát triển.
- Đầu tư phát triển tạo điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm.
Như ta biết nhu cầu của con người, xã hội ngày càng gia tăng. Để tạo ra
những sản phẩm- dịch vụ có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu

5
dung, các doanh nghiệp phải thay đổi dây truyền công nghệ, nâng cao năng lực
của nguồn nhân lực. Đầu tư trong doanh nghiệp bao gồm: Đầu tư vào lao động
và đầu tư vào tài sản cố định hay dự trứ… Khi đầu tư đổi mới tài sản cố định
nghĩa là đổi mới các dây truyền sản xuất mới trên cơ sở kỹ thuật công nghệ hiện
đại hơn, giúp tăng năng suất và tăng các sản phẩm mới. đáp ứng nhu cầu đổi
mới xu hướng tiêu dung và đa dạng của người tiêu dùng . Bên cạnh đó là đầu tư
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Ta biết các công nghệ mới, kỹ thuật cao
đòi hỏi người vận hành nó phải có một trình độ nhất định. Đầu tư phát triển
nguồn nhân lực tạo ra một đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao có khả năng
tiếp thu và vận dụng các công nghệ mới, thay đổi cơ chế tổ chức quản lý để hoạt
động của doanh nghiệp thật sự có hiệu quả. Khi đã tiến hành đầu tư đổi mới sản
phẩm sản xuất ra vừa có mẫu mã mới đa dạng, hấp dẫn người tiêu dung mà cả
chất lượng của sản phẩm cũng được gia tăng mà giá thành sản phẩm lại hạ
xuống.
- Đầu tư phát triển tạo điều kiện giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận.
Không có doanh nghiệp nào tíên hành sản xuất kinh doanh lại không đặt
mục tiêu về lợi nhuận vì lợi nhuận chính là động lực để các nhà đầu tư, các
doanh nghiệp bỏ vốn ra thực hiên đầu tư. Không chỉ mong muốn có lợi nhuận
mà họ còn mong muốn tiền của họ không ngừng gia tăng lên, tức là quy mô lợi
nhuận ngày càng được mở rộng.
Hoạt động đầu tư của mỗi doạnh nghiệp chính là hoạt động nhằm thực hiện
chiến lước sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với mục tiệu đạt được lợi
nhuận mà doanh nghiệp đề ra. Khi lợi nhuận ngày càng cao thì lợi ích càng lớn
càng kích thích đầu tư thêm và ngược lại.
Ta biết lợi nhuận được quy mô bới doanh thu và chi phí theo công thức:
Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí
Doanh thu có lớn hay không lại phụ thuộc vào quà trình đầu tư của doanh
nghiệp. Nếu đầu tư mang lại hiệu quả cao thì doanh thu sẽ nhiều. Như vậy đầu

6
tư đã tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, tăng lợi
nhuận
- Đầu tư góp phần đổi mới công nghệ, trình độ khoa học kỹ thuật trong sản
xuất sản phẩm của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn luôn chú trọng đến
việc đổi mới nhằm nâng cao sức cạnh tranh của mình. Và một trong các công
việc đầu tư của doanh nghiệp là đầu tư vào tài sản cố định. Điều này có nghĩa là
doanh nghiệp tiến hành mua sắm máy mọc thiết bị, đổi mới công nghệ nhằm
nâng cao năng suất, đổi mới sản phẩm cả về chủng loại về mẫu mã và chất
lượng… Bất cứ hoạt động nghiên cứu triển khai các công trình khoa học công
nghệ mới hay mua sắm các công nghệ mới thì đều phải sử dụng vốn hay đúng
hơn là phải tiến hành đầu tư.
Như vậy có thể thấy dưới sự phát triển như vũ bão của các cuộc cánh mạng
khoa học công nghệ, mỗi doanh nghiệp đều nhận thấy vai trò của đầu tư cho
công nghệ cũng như hiện dại hoá máy móc thiết bị trong quá trình sản xuất. Hay
nói cách khác đầu tư góp phần đổi mới công nghệ trình độ khoa học kỹ thuật.
- Đầu tư phát triển góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Đầu tư vào lao động bao gồm những hoạt động như đầu tư và đào cán bộ
quản lý, tay nghề công nhân, các chi phí để tái sản xuất. Nâng cao chất lượng,
sản phẩm dịch vụ, đa dạng hoá các sản phẩm đầu ra. Điều này chỉ thực hiện
được thông qua đổi mới, thay đổi dây truyền sản xuất kinh doanh mới. Nhưng
khi thay đổi các dây truyền này đòi hỏi đội ngũ nhân lực cũngphải có trình độ
tương ứng với công nghệ mới đó, phải hiệu và biết cách vận hành công nghệ
mới. Có như vậy hoạt động của doanh nghiệp mới có hiệu quả. Doanh nghiệp
nào trong quá trình hoạt động của mình cũng đều cần có đội ngũ lao động có
trình độ, kỹ năng. Trình độ, kỹ năng của người lao động ảnh hưởng tới quá trình
sản xuất kinh doanh cho phép tạo ra các sản phẩm chất lượng cao đáp ứng đòi
hỏi của người tiêu dùng. Cùng với điều kiện sản xuất như nhau nhưng lao động
có trình độ sẽ tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt hơn, đảm bảo cạnh tranh.

7
3. Vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Nguồn vốn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích luỹ được thể hiện dưới
dạng giá trị được chuyển hoá thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã
hội. Đây là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu
tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của Nhà nước và của xã hội.
Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay
tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất
xã hội. Điều này đã được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị Mác- Lênin và
kinh tế học hiện đại chứng minh.
Trên góc độ vi mô, nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp bao gồm hai
nguồn chính là nguồn vốn nội bộ doanh nghiệp và nguồn vốn bên ngoài doanh
nghiệp.
Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp:
Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp được hình thành từ nội bộ doanh
nghiệp bao gồm vốn góp ban đầu, lợi nhuận giữ lại, phần khấu hao hàng năm và
huy động bằng các công cụ chứng khoán.
- Nguồn vốn góp ban đầu: Khi doanh nghiệp được thành lập, bao giờ chủ
doanh nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định. Nguồn vốn này có thể
do một người, hay một nhóm người tham gia góp vốn tuỳ thuộc vào từng loại
hình của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp đều phải có một lượng vốn ban đầu
mới có thể thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Bước đầu dùng
để đầu tư cho các tài sản cố định cần thiết như nhà xưởng, văn phòng, máy móc
thiết bị cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp.
- Nguồn vốn từ lợi nhuận giữ lại: là bộ phần lợi nhuận được sử dụng để tái
đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đã đi
vào hoạt động dựa trên nguồn vốn góp ban đầu để mua sắm máy móc thiết bị…
tiến hành thực hiện công việc đầu tư sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận. Trong
thời gian đầu khi mà doanh nghiệp mới đi vào hoạt động thì hầu hết lợi nhuận
của doanh nghiệp đều được giữ lại để tiến hành tái đầu tư mở rộng doanh nghiệp

8
và nâng cao vị trí của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đã hoạt động trong một
thời gian dài thì để ngày càng nâng cao vị thế và mở rộng sự ảnh hưởng chiếm
lĩnh thị trường thì mỗi doanh nghiệp không ngừng đầu tư thay đổi công nghệ
cũng như nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng sản phẩm.
Hoạt động này được thực hiện chính là do phần lợi nhuận giữ lại của doanh
nghiệp.
- Nguồn vốn từ phần khấu hao hàng năm: Khi doanh nghiệp đi vào hoạt
động đều xây dựng nhà cửa, văn phòng, mua sắm máy móc thiết bị… Những
trang thiết bị hình thành nên phần tài sản hữu hình của doanh nghiệp. Những tài
sản này không phải tồn tại mãi mãi mà có chu kỳ hoạt động cũng như có thời
gian sống của riêng nó. Mỗi một loại tài sản lại có một thời gian sử dụng nhất
định do nó chịu sự ảnh hưởng của hao mòn hữu hình và cả hao mòn vô hình của
các tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới. Mà mỗi tài sản này có giá trị
không nhỏ, doanh nghiệp không thể chỉ trong một lúc mà có thể mua sắm, thay
thế mới những tài sản đó. Vì vậy trong mỗi chu kỳ hoạt động của mình doanh
nghiệp đều tính khấu hao để vào quỹ khấu hao tài sản cố định để chuẩn bị cho
sự thay thế khi cần thiết các tài sản cố định đó. Hàng năm, phần khấu hao này
đều được để riêng vào quỹ riêng nhưng không phải để ứ đọng mà nó làm thành
một phần trong nguồn vốn dung để tiến hành tái sản xuất của mỗi doanh nghiệp.
- Nguồn vốn huy động bằng cách thông qua các công cụ chứng khoán:
Nguồn vốn này chính là nguồn vốn được hình thành bằng cách phát hành cổ
phiếu của các doanh nghiệp cổ phần. Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận
quyền và lợi ích hợp pháp của cổ đông đối với một phần vốn cổ phần của tổ
chức phát hành. Hay nói cách khác công ty phát hành cổ phiếu để huy động vốn,
số vốn cần huy động được chia làm các phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phẩn và cổ
phiếu chính là một chứng thư chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối
với một công ty cổ phần. Cổ phiếu thì gồm có cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu
tiên.

9
+ Cổ phiếu thường: là loại cổ phiếu thông dụng nhất, đồng thời là chứng
khoán quan trọng nhất được trao đổi, mua bán trên thị trường chứng khoán.
+ Cổ phiếu ưu tiên: là cổ phiếu phát hành kèm theo một số điều kiện ưu
tiên cho nhà đầu tư sở hữu nó.
Nguồn vốn bên trong của doanh nghiệp có ưu điểm là đảm bảo tính độc
lập, chủ động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không bị phụ thuộc vào chủ nợ,
hạn chế được những rủi ro về tín dụng. Nhưng trong nhiều trường hợp, nếu chỉ
dựa vào nguồn vốn đầu tư trong doanh nghiệp sẽ làm hạn chế quy mô đầu tư.
Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp:
Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp được hình thành từ: nguồn vốn tín
dụng ngân hàng, nguồn vốn tín dụng thương mại, nguồn vốn từ phát hành trái
phiếu công ty.
- Nguồn vốn tín dụng ngân hàng: Đây là một trong những nguồn vốn quan
trọng nhất của doanh nghiệp. Hiện nay, có thể nói không có một doanh nghiệp
nào không muốn vay vốn ngân hàng, không sử dụng tín dụng ngân hang hoặc tín
dụng thương mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thị trường.
Để tiến hành hoạt động đầu tư, tái sản xuất, và đầu tư mới doanh nghiệp cần
phải có một lượng vốn đầu tư rất lớn trong khi đó nguồn vốn bên trong nội bộ
doanh nghiệp không thể huy động đáp ứng đủ nhu cầu đó. Nếu doanh nghiệp
không tiến hành đầu tư thì sẽ ảnh hưởng đến vị trí cũng như sự tồn tại của doanh
nghiệp đó trên thị trường, do thị trương hiện nay là thị trường tự do cạnh tranh
nếu không đổi mới doanh nghiệp sẽ bị tụt hậu và phá sản. Khi này thì nguồn vốn
tín dụng vay vốn ngân hàng sẽ đáp ứng cho nhu cầu vốn còn thiếu của doanh
nghiệp. Để có được nguồn vốn này thì doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện
bảo đảm tín dụng của ngân hang, các điều kiện bảo đảm tiền vay, sự kiểm soát
của các ngân hàng đối với việc sử dụng vốn đi vay của doanh nghiệp. Và phải
chú ý đến việc đây là nguồn vốn vay phải trả lãi của doanh nghiệp. Lãi vay
chính là một yếu tố làm phát sinh chi phí.

10
- Vốn tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp,
được biển hiện dưới hình thức mua bán chịu, xuất hiện do sự tách biệt giữa sản
xuất và tiêu dùng. Nguồn vốn này giúp cho các doanh nghiệp thực hiện hoạt
động sản xuất, kinh doanh của mình ngay cả khi chưa chuẩn bị được đầy đủ vốn
để mua sắm đầu vào cho quá trình sản xuất kinh doanh đó. Điều này làm giảm
đáng kể nhu cầu vốn trong doanh nghiệp. Tạo cơ hội cho doanh nghiệp tập trung
vốn cho những lĩnh vực khác, các khâu khác.
- Phát hành trái phiếu công ty: Trái phiếu là công cụ nợ do các cơ quan
công quyền, các công ty đang hoạt động phát hành nhằm huy động vốn trên thị
trường trong đó các trái chủ được cam kết sẽ thanh toán cả gốc và lãi trong một
thời hạn nhất định. Trái phiếu lá loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp
pháp của người sở hữu với một phần nợ của tổ chức phát hành. Về bản chất trái
phiếu chính là một hình thức vay nợ của doanh nghiệp. Trái phiếu doanh nghiệp
bao gồm trái phiếu có đảm bảo và trái phiếu không đảm bảo.
4. Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp bao gồm nhiều nội dung
khác nhau. Tuỳ theo mục đích doanh nghiệp và các cách tiếp cận khác nhau ta
sẽ có các hình thức đầu tư phát triển khác nhau.
Theo khái niệm, nội dung của đầu tư phát triển bao gồm:
- Đầu tư vào tài sản vật chất
+ Đầu tư xây dựng cơ bản.(đầu tư tài sản cố định)
+ Đầu tư bổ sung hàng tồn trữ.
- Đầu tư vào tài sản vô hình
+ Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
+ Đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai các hoạt động khao
học và công nghệ.
+ Đầu tư vào hoạt động nghiên cứu thị trường.
+ Đầu tư vào bí quyết công nghệ.

11
+ Đầu tư cho các hoạt động marketing, xúc tiến hỗn hợp, củng cố uy tín,
thương hiệu
+ Đầu tư vào các tài sản vô hình khác.
4.1 Đầu tư vào tài sản vật chất
Tài sản vật chất (hữu hình) là những tài sản có hịnh thái vật chất cụ thể, có
thể tham gia vào một hay một số chu kỳ sản xuất của doanh nghiệp.
Tài sản hữu hình được chia thành hai loại là tài sản lưu động có thời gian
luân chuyển ngắn hạn và tài sản cố định hữu hình có giá trị lớn và thời dian hoạt
động lâu dài.
Tài sản cố định hữu hình thường chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng tài
sản của doanh nghiệp đồng thời có ý nghĩa rất quan trọng. Nó tác động trực tiếp
đối với đối tượng sản xuất để tạo ra sản phẩm cho doanh nghiệp. Vì vậy đầu tư
vào tài snả cố định hữu hình trong doanh nghiệp là mục tiêu trước mắt và lâu dài
cho quá trình tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp.
Tài sản vật chất của doanh nghiệp được dung thường xuyên vào quá trình
sản xuất kinh doanh, trực tiếp chế tạo ra các loại sản phẩm cho doanh nghiệp
hoặc gián tiếp tạo ra các sản phẩm đó. Nó được khấu hao thường xuyên vào sản
phẩm của doanh nghiệp.
Đầu tư vào tài sản vật chất bao gồm đầu tư cho tài sản cố định và đầu tư
hàng tồn trữ.
4.1.1 Đầu tư vào tài sản cố định (đầu tư xây dựng cơ bản)
Đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) là hoạt động đầu tư nhằm tái tạo tài sản
cố định của doanh nghiệp, là sự bỏ vốn ra để xây dựng nhà máy, cơ sở hạ tầng
và mua sắm thiết bị và các tài sản đủ tiêu chuẩn là TSCĐ của các đơn vị sản
xuất kinh doanh làm tăng thực sự tài sản sản xuất.
Đầu tư XDCB bao gồm các hoạt động chính như xây lắp và mua sắm máy
móc thiết bị. Trong doanh nghiệp, đặc biệt là trong doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh, để các hoạt động diễn ra bình thường đều cần xây dựng nhà xưởng, kho
tang, các công trình kiến trúc, mua và lắp đặt trên nền bệ các máy móc thiết bị…

12
Hoạt động đầu tư XDCB đòi hỏi vốn lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng
vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp. Vốn đầu tư XDCB là toàn bộ chi phí
dành cho việc tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng cho doanh nghiệp.
Nó bao gồm các khoản chi phí cho khảo sát, thiết kế và xây lắp nhà của kiến
trúc, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc và một số phát sinh khác trong quá
trình tái sản xuất tài sản cố định.
Hoạt động đầu tư vào tài sản cố định có những nội dung chính:
- Đầu tư vào nhà xưởng, vật kiến trúc
- Đầu tư vào máy móc thiết bị
- Đầu tư vào phương tiện vận tải, phương tiện truyền dẫn.
* Đầu tư vào nhà xưởng, vật kiến trúc
Nhà xưởng, vật kiến trúc (các văn phòng làm việc và phòng nghỉ ngơi) là
những hạng mục công trình lớn và quan trọng nhất của bất kỳ doanh nghiệp nào.
Trong bất kỳ một dự án nào, muốn thực hiện được dây chuyền sản xuất thì phải
có một cái khung, một vỏ bọc thật tốt. Đó là nhà cửa, nhà xưởng, vật kiến trúc.
Nhà xưởng, vật kiến trúc không những là nơi bảo vệ của cải, trang thiết bị máy
móc được lắp đặt trong đó, mà nó còn là nơi để thực hiện sản xuất sản phẩm
(nhà xưởng) hay tái sản xuất lại sức lao động (vật kiến trúc). Vì vậy, đầu tư vào
nhà xưởng, vật kiến trúc là hoạt động thực sự quan trọng, được tiến hành và
hoàn thành sớm nhất trong một dự án đầu tư.
Lượng vốn cho hoạt đồng này là tương đối lớn cho dù quy mô sản xuất của
doanh nghiệp là lớn hay nhỏ, nên trong quá trình thi công xây dựng cần giám sát
chặt chẽ để đảm bảo an toàn, ổn định cho hết chu ký của dự án.
* Đầu tư vào máy móc thiết bị
Đầu tư vào máy móc thiết bị là phần quan trọng nhất của hoạt động đầu
tư.Có máy móc thiết bị đầy đủ và chất lượng thì dự án mới đi vào thực hiện
được. Máy móc thiết bị phải phù hợp với tính chất của dây chuyền sản xuất, phải
phù hợp với đặc điểm của sản phẩm. Máy móc thiết bị trực tiếp quyết định công
suất của nhà máy cũng như chất lượng mẫu mã của sản phẩm tạo ra. Máy móc

13
thiết bị sử dụng không phù hợp thì sẽ ảnh hưởng đến đặc tính của sản phẩm tạo
ra, chất lượng của sản phẩm không đảm bảo, sản phẩm có thể không bán được
trên thị trường, doanh nghiêp thất bại và có thể bị đào thải khỏi thị trường. Do
hậu quả nghiêm trọng như vậy và do lượng vốn bỏ ra đối với hoạt động này
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn đầu tư mà việc lựa chọn máy móc thiết bị
được sử dụng trong các doanh nghiệp là vấn đề tiên quyết, là xương sống của
một dự án đầu tư, là mối quan tâm hàng đầu của các chủ đầu tư.
* Đầu tư vào phương tiện vận tải
Phương tiện vận tải là những bộ phận có thể nói là trung gian cầu nối giữa
nơi cung cấp nguyên, nhiên vật liệu; cung cấp đầu vào cho sản xuất tới nơi sản
xuất sản phẩm và cầu nối giữa nơi sản xuất sản phẩm và nơi tiêu thụ sản phẩm.
Ngoài ra còn dùng để chuyên chở cán bộ công nhân viên… Vì vậy mà việc đầu
tư vào phương tiện vận tải là hết sức cần thiết.
Lượng vốn dành cho hoạt động đầu tư phương tiện vận tải mặc dù không
chiếm tỷ trọng lớn nhưng tuỳ theo quy mô và đặc tính của sản xuất của từng
doanh nghiệp mà cũng cần phải đầu tư đúng mức, hợp lý để tránh tình trạng thất
thoát, lãng phí nguồn vốn và đem lại hiệu quả kinh tế cao.
4.1.2 Đầu tư vào hàng tồn trữ
Hàng tồn trữ là sự ngưng đọng tạm thời của sản phẩm hoá xã hội trong quá
trình vận động từ sản xuất đến tiêu dung, được giữ lại để bán và tiêu dùng sau
này. Hàng tồn trữ trong doanh nghiệp là toàn bộ nguyên nhiên vật liệu, bán
thành phẩm và sản phẩm hoàn thành được tồn trữ trong doanh nghiệp.
Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp, quy mô và cơ cấu các mặt hang tồn
trữ cũng khác nhau. Như nguyên vật liệu là bộ phận hang tồn trữ không thể thiếu
của doanh nghiệp sản xuất nhưng lại không có trong doanh nghiệp thương mại.
Hàng tồn trữ có vai trò rất quan trọng do: Một mặt, dự trữ vật tư không đủ
mức cần thiết sẽ có nguy cơ làm cho sản xuất của doanh nghiệp bị gián đoạn,
mặt khác, dự trữ quá nhiều dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn, không có lợi cho
doanh nghiệp. Do vậy, xác định quy mô đầu tư hang tồn trữ tối ưu cho doanh

14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét