Thứ Ba, 25 tháng 2, 2014

Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn khu công nghiệp Minh Đức đối với phát triển kinh tế hộ

Chuyên đề thực tập
+Tạo điều kiện đáp ứng tốt nhất các yêu cầu phục vụ các hoạt động sản xuất kế tiếp sản
xuất nông nghiệp hoặc phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất nông nghiệp và các nhu
cầu của đời sống với lượng đất đai ít nhất.
+Khai thác các tiềm năng và lợi thế của đất đai và các yếu tố gắn liền với đất đai, phù hợp
với yêu cầu của thị trường nhằm nâng cao hiệu quả của đất đai.
-Lao động là điều kiện quan trọng và không thể thiếu được để thực hiện quá trình sản
xuất kinh doanh của hộ trong lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông thôn, lao
động là điều kiện chủ yếu cho sự tồn tại của hộ sản xuất kinh doanh, trong bất kỳ một quá
trình sản xuất kinh doanh nào đều có lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động, sản
xuất kinh doanh không thể tiến hành được nếu thiếu đối tượng lao động và tư liệu lao
động.Như vậy lao động là nhân tố quyết định của mọi quá trình sản xuất kinh doanh.
-Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất không thể thiếu được trong quá trình sản xuất kinh
doanh của hộ trong lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp.Tư liệu sản xuất bao gồm tài
sản cố định và tài sản lưu động.
+Tài sản cố định phục vụ sản xuất như: nhà xưởng, kho tàng, nhà để máy móc, thiết bị,
trại chăn nuôi, các công trình xây dựng cơ bản, máy móc, công cụ thiết bị, các phương tiện
vận tải, gia súc cày kéo, gia súc sinh sản và cây lâu năm
Tài sản cố định không phục vụ sản xuất như là nhà ở, các công trình phúc lợi, các tài sản
trên không tính khấu hao vào sản phẩm làm ra mà tìm vào các chi phí phúc lợi công cộng.
+Tài sản lưu động trong các cơ sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp tài sản lưu động
cũng có nhiều loại khác nhau, chúng nằm trong quá trình sản xuất, quá trình dự trữ và quá
trình lưu thông, những tài sản lưu động chủ yếu trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp như
giống, phân bón, hoá chất bảo vệ thực vật, thức ăn gia súc, dầu mỡ
Tài sản lưu động trong quá trình sản xuất nông nghiệp cũng rất quan trọng, vì vậy các
cơ sở sản xuất kinh doanh phải đảm bảo đầy đủ tài sản lưu động cho sản xuất, cân đối với
tài sản cố định, để tài sản cố định phát huy hết tiềm năng, năng lực sản xuất của chúng, ví
dụ như, máy móc thiết bị cần nhiên liệu, gia súc cần thức ăn
-Tiến bộ khoa học- kỹ thuật là điều kiện quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh
của hộ trong lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp, nó giúp hộ sản xuất nâng cao năng
5
Chuyên đề thực tập
suất lao động,nâng cao sức sống bên trong của cây trồng, vật nuôi, sử dụng có hiệu quả
nguồn nguyên liệu.
II)Các vấn đề cơ bản về tín dụng của NHNN&PTNT cho phát triển kinh tế Hộ .
1)Khái niệm về tín dụng.
Tín dụng ngân hàng mang bản chất của quan hệ tín dụng. Đó là quan hệ vay mượn dựa
trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc, cả lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển
nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng hai bên cùng có lợi, có nghĩa là
trong quan hệ tín dụng người cho vay chỉ chuyển nhượng quyền sử dụng cho người đi vay,
sau một thời gian nhất định theo thoả thuận người đi vay sẽ hoàn trả lại cho người đi vay,
sau một thời gian nhất định theo thoả thuận người đi vay sẽ hoàn trả lại người cho vay một
khoản tiền nhất định. Sự hoàn trả này không đơn thuần là bảo tồn về mặt giá trị vốn tín
dụng mà còn tăng thêm dưới hình thức lợi tức.
-Tín dụng ra đời, tồn tại và phát triển cùng với nền sản xuất hàng hoá, có thể nói tín dụng
ra đời làm cho quan hệ sản xuất hàng hoá phát triển mạnh phù hợp với thị trường, hay có
thể nói tín dụng là một nhân tố không thể thiếu để phát triển sản xuất hàng hoá.
-Những lượng tiền nhàn rỗi tạm thời được tập trung và đáp ứng nhu cầu vốn, kịp thời
phục vụ cho sản xuất và lưu thông, những lượng tiền nhàn rỗi có thể huy động trong dân
hay nhiều nguồn khác để cho sản xuất và lưu thông được diễn ra liên tục không bị gián
đoạn làm cho sản xuất và lưu thông phát triển làm cho xã hội ngày càng phát triển về mặt
kinh tế.
-Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, tín dụng ngày càng phát triển cả về nội
dung và hình thức, nội dung của tín dụng rất đa dạng và hình thức thì ngày càng nhiều, nội
dung và hình thức tín dụng phát triển giúp phát triển nền kinh tế hàng hoá nói riêng và nền
kinh tế nói chung.
Vậy tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn giữa một bên là các ngân hàng, các tổ chức
tín dụng với bên kia là các doanh nghiệp và cá nhân khác là một nghiệp vụ tài sản có của
ngân hàng được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả có lãi.
2)Đặc điểm và vai trò của vốn tín dụng NHNN&PTNT đối với phát triển kinh tế hộ.
2.1) Đặc điểm.
6
Chuyên đề thực tập
-Trong nền kinh tế hàng hoá, đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình sản xuất
kinh doanh của các đơn vị là không hoàn toàn giống nhau.
-Do nhu cầu về vốn của các đơn vị tập thể, cá nhân khác nhau làm nảy sinh hiện tượng
chủ yếu phổ biến là trong cùng một thời gian có những đơn vị kinh tế phát sinh nhu cầu về
vốn tiền tệ cần được đáp ứng và bổ sung với khối lượng và thời gian nhất định.
-Để đầu tư vốn cho nông nghiệp, nông thôn mang lại hiệu quả kinh tế cao, cần phải hiểu
rõ những đặc điểm của đầu tư vốn. Đặc điểm của vốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn
trước hết biểu hiện ở đặc điểm hoạt động của vốn. Do đặc thù của sản xuất nông nghiệp,
vốn, sự huy động của vốn và sự hoạt động của vốn tín dụng cũng có đặc điểm riêng:
+Nông nghiệp là ngành có nhiều đặc điểm mang tính đặc thù, trong đó tính nặng nhọc,
phức tạp của lao động, tính sinh lời thấp và tính rủi ro cao của sản xuất là những đặc điểm
có tính đặc trưng nhất. Với những đặc điểm này, nông nghiệp là ngành cần lượng vốn đầu
tư lớn, nhưng lượng vốn trong nội bộ ngành ít sức thu hút từ các ngành, lĩnh vực khác của
nền kinh tế quốc dân rất kém. Vì vậy nguồn vốn đầu tư qua ngân sách, nguồn vốn tín dụng
ưu đãi có ý nghĩa hết sức quan trọng.
+Nông nghiệp là ngành sản xuất sinh học, vì vậy ngoài những tư liệu lao động có nguồn
gốc kỹ thuật còn có những tư liệu lao động có nguồn gốc sinh học( cây trồng, vật
nuôi )những tư liệu lao động này, một mặt thay đổi giá trị sử dụng thưo quy luật sinh học,
mặt khác chúng không thể có sự khôi phục từng bộ phận như máy móc. Hơn nữa chu kỳ
sản xuất của cây trồng, vật nuôi khá phức tạp. Tuỳ thuộc từng loại mà chu kỳ sản xuất dài
ngắn khác nhau( loại ngắn cũng phải 3 tháng, có loại thời gian kiến thiết cơ bản dài tới 7
năm, chu kỳ kinh tế tới 40 năm như cây cao su) những yêu cầu về vốn theo đặc điểm trên
rất nghiêm ngặt. Vì vậy, chính sách đầu tư và cung cấp vốn phải tuân thủ và phù hợp với
từng loại cây trồng vật nuôi theo những đặc tính sinh học đó.
+Hoạt động sản xuất nông nghiệp, nông thôn lệ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Bởi
vì sự tác động của vốn vào quá trình sản xuất và hiệu quả kinh tế của nó không phải là trực
tiếp mà là gián tiếp thông qua đất, cây trồng, vật nuôi. Để đầu tư vốn có hiệu quả, cơ cấu và
lượng vốn phải phù hợp với yêu cầu của từng loại đất đai, từng đối tượng sinh học.
7
Chuyên đề thực tập
Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, môi trường sinh thái ngày càng xấu đi, điều kiện tự
nhiên ngày càng khắc nghiệt hơn làm cho tính rủi ro sản xuất ngày càng cao, tổn thất ngày
càng lớn và khó lường trước được. Trong bối cảnh đó vốn đầu tư cho nông nghiệp cần một
lượng rất lớn, nhiều khi đầu tư khó thu hồi (đầu tư cho phòng Hộ), khả năng rủi ro của vốn
rất cao.
+Ngoài ra tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp một mặt làm cho sự tuần hoàn và luân
chuyển vốn chậm chạp, sự cần thiết phải dự trữ đáng kể trong thời gian tương đối dài vốn
lưu động( giống, thức ăn gia súc, phân bón….)làm cho vốn ứ đọng. Mặt khác đã tạo ra sự
cần thiết tập trung hóa cao hơn các phương tiện kỹ thuật cho một lao động nông nghiệp(đặc
biệt ở các nước kinh tế phát triển), vì vậy, yêu cầu vốn cho nông nghiệp, nông thôn thường
phải bổ sung một lượng lớn.
Đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển, các hộ nông dân chủ yếu sống bằng
nông nghiệp như Việt Nam, trong tình trạng thu nhập của từng hộ và từng người còn thấp
khả năng tích luỹ trong nội bộ nông dân nhỏ, lực nội sinh không đủ giúp họ thoát ra sự
nghèo đói vì thế nông dân( kể cả những hộ được coi là giàu) đang cần một lượng vốn lớn
để phát triển sản xuất.
Ở nước ta thời gian qua ngân sách nhà nước đã dành một số vốn đáng kể để đầu tư cơ
bản cho nông nghiệp( thuỷ lợi, khai hoang, xây dựng các vùng kinh tế mới, xây dựng cơ sở
quốc doanh, xây dựng các trạm trại kỹ thuật, các cơ sở chăn nuôi thú y…), nếu tính theo
giá 1990, vốn đầu tư cho nong nghiệp bình quân mỗi năm ở giai đoạn 1976-1985 là 732 tỷ
đồng, giai đoạn 1976-1980 là 704 tỷ đồng, giai đoạn 1981-1985 là 732 tỷ đồng, giai
đoạn1986-1990 là 673 tỷ đồng, tuy nhiên, nếu so với yêu cầu, với sự đóng góp của nông
nghiệp nông thôn cho nền kinh tế quốc dân thì mức đầu tư như trên là quá thấp, trên thực tế
những năm đó hàng năm nông nghiệp, nông thôn sáng tạo ra khoảng 50% thu nhập quốc
dân, nhưng tỷ trọng vốn ngân sách đầu tư cho nông nghiệp, kể cả thuỷ lợi năm cao nhất
mới chiếm 21,2% ( thường ở mức 18%) trong khi đó, cơ sở vật chất của nông nghiệp còn ở
trong trình độ thấp, nhất là ở các vùng trung du và miền núi(ở các vùng này, diện tích đất
nông nghiệp được tưới tiêu nước chỉ đạt 26,3% trang bị kỹ thuật đạt 27% yêu cầu).
8
Chuyên đề thực tập
Đầu tư vốn qua tín dụng cho nông nghiệp, nông dân cũng mới đáp ứng 50%-60% nhu cầu,
hiện nay, đại bộ phận nông dân thiếu vốn sản xuất và có nhu cầu vay vốn,nhưng nguồn vốn
cấp cho ngân hàng nông nghiệp cho vay chủ yếu thoả mãn với các điều kiện của doanh
nghiệp nông nghiệp của nhà nước, nhiều nông dân ( kể cả các trang trại) chưa dám vay
hoặc chưa được nguồn vốn nay, hiện nay có 2 ý kiến tría ngược nhau, phía nông dân cho
rằng thủ tục vay còn phiền hà, nông dân khó vay vốn ngân hàng, phía ngân hàng cho rằng
nông dân không tiếp cận và không có nhu cầu vay vốn. Nguồn vốn ưu đãi chủ yếu phục vụ
cho các Hộ nghèo, mức thu hút thấp và việc sử dụng vốn rất kém hiệu quả, số vốn cho vay
dài hạn và trung hạn dành cho nông nghiệp, nông thôn ở mức thấp(5%-6% tổng vốn tín
dụng cho nông nghiệp) và chủ yếu cho các hoạt động phi sản xuất, thực thi các chính sách
ưu đãi như cho vay tôn cao nền nhà ở đồng bằng sông cửu long, xây dựng giao thông nông
nghiệp, nông thôn…Đây là những vấn đề rất bức xúc đòi hỏi chính sách đầu tư vốn phải
xem xét một cách thấu đáo và giải quyết một cách thoả đáng.
+Đa số hộ vay vốn tín dụng với lượng vốn nhỏ, họ không giám vay khoản lượng vốn
lớn một phần là do phía ngân hàng nông nghiệp không dám cho các hộ vay lượng vốn lớn
do lo sợ hộ sẽ trả lãi và gốc chậm không đúng thời gian ảnh hưởng đến lượng vốn của ngân
hàng, một phần do tâm lý e ngại của người dân không dám vay lượng vốn lớn họ chỉ dám
vay lượng vốn nhỏ để sản xuất kinh doanh nhỏ ở nông thôn hay để đầu tư vào sản xuất
nông nghiệp nhưng với lượng vốn nhỏ, nhưng không phải hộ nào cũng thế có những Hộ
sản xuất kinh doanh nhỏ muốn vay vốn lớn để mở rộng sản xuất kinh doanh, chẳng hạn ở
khu công nghiệp Minh Đức có hộ làm nghề giấy tiền vay vốn ngân hàng nghiệp với lượng
vốn là 100-200 triệu để đầu tư mở rộng sản xuất .
+Vay vốn của ngân hàng nông nghiệp của các hộ sử dụng vào nhiều mục đích, có hộ
đầu tư để gieo trồng chăn nuôi, có hộ đầu tư vào sản xuất kinh doanh nhỏ chẳng hạn như:
làm giấy tiền và hàng mã, hay làm đồ gỗ truyền thống,vay vốn ngân hàng không nhất quyết
là phải đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp mà có thể đầu tư vào lĩnh vực phi nông
nghiệp vì vốn của ngân hàng nông nghiệp dùng để phát triển nông thôn làm sao để nông
thôn phát triển theo đúng định hướng của nhà nước, làm cho nông thôn ngày càng phát
9
Chuyên đề thực tập
triển thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, góp phần nâng cao dân trí hay thu
nhập bình quân đầu người ở Việt Nam ngày càng tăng cao.
+Khả năng sử dụng vốn vay của các Hộ: có Hộ sử dụng vốn vay một cách linh động
thời gian thu hồi vốn ngắn lãi nhanh hoàn trả nợ ngân hàng thậm chí còn trước thời hạn, tuy
nhiên cũng có Hộ sử dụng vốn vay trì trệ, đa số những Hộ sử dụng vốn vay trì trệ dơi vào
các Hộ sản xuất nông nghiệp thuần tuý vì do đặc điểm sản xuất nông nghiệp phụ thuộc
nhiều vào điều kiện tự nhiên, mặt khác là do trình độ sản xuất của các Hộ đó là thấp.
+Tính rủi ro của các Hộ sản xuất nông nghiệp thuần tuý là tương đối cao, thời gian thu
hồi vốn chậm, trong khi đó tính rủi ro của các Hộ sản xuất phi nông nghiệp là thấp hơn vì
họ không phù thuộc vào điều kiện tự nhiên nhiều mà họ chỉ phụ thuộc vào nhu cầu thị
trường vì thế họ sẽ sản xuất sao cho phù hợp với nhu cầu thị trường hay làm thế nào để thu
hồi vốn và có lãi một cách nhanh nhất,tóm lại tính rủi ro trong sản xuất nông nghiệp là rất
cao, tính rủi ro vốn trong sản xuất phi nông nghiệp là rất thấp.
2.2) Vai trò.
Như ta đã biết tín dụng ngân hàng là mối quan hệ giữa ngân hàng và các tổ chức tín
dụng khác với doanh nghiệp và cá nhân. Tín dụng ngân hàng giữ vai trò quan trọng trong
sự nghiệp phát triển kinh tế Hộ, từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách toàn diện.
-Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất đối với Hộ.
-Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất kinh tế Hộ.
-Tín dụng ngân hàng là công cụ hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp và các ngành nghề khác
ở nông thôn.
-Tín dụng ngân hàng góp phần đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá kinh tế nông nghiệp- nông
thôn.
-Tín dụng ngân hàng hạn chế hiện tượng cho vay nặng lãi ở nông thôn, góp phần quan
trọng đặc biệt vào công cuộc xoá đói giảm nghèo của Đảng và nhà nước.
-Tín dụng ngân hàng kiểm soát bằng đồng tiền và thúc đẩy người nông dân thực hiện hạch
toán kinh tế.
-Tín dụng ngân hàng góp phần xoá đói giảm nghèo đối với Hộ nghèo ở nông thôn hiện
nay.
10
Chuyên đề thực tập
Vốn là điều kiện cần thiết và không thể thiếu được thực hiện quá trình sản xuất kinh
doanh của mọi ngành trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn vì vậy, việc đầu tư vốn cho
nông nghiệp nông thôn có vai trò hết sức quan trọng, điều đó được biểu hiện:
-Nông nghiệp là một trong những ngành sản xuất vật chất quan trọng và cơ bản của nền
kinh tế quốc dân. Khác với các ngành sản xuất khác, nông nghiệp là ngành sản xuất sinh
học, phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên. Vì vậy, đây là ngành cần lượng vốn lớn,
nhưng lợi nhuận của ngành thấp, tính rủi ro cao. Trong điều kiện sản xuất hàng hoá chi
phối, những người sản xuất sẽ tập trung đầu tư vào những ngành, những lĩnh vực có lợi
nhuận cao, dẫn đến một số ngành đầu tư mang hiệu quả thấp sẽ không được chú ý phát
triển. Nông nghiệp nông thôn là ngành và lĩnh vực rơi vào tình trạng đó, do vậy, nông
nghiệp nông thôn phát triển nhanh hay chậm phụ thuộc rất lớn vào việc đầu tư của nhà
nước, trong đó có đầu tư vốn.
Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn là yếu tố quyết định để phát huy tiềm năng về đất đai,
sức lao động và các nguồn lợi tự nhiên khác nhằm cải biến nông nghiệp, nông thôn từng
bước theo kịp với các ngành, các lĩnh vực khác trong phát triển kinh tế xã Hội.
-Ngoài những vấn đề trên, nông nghiệp, nông thôn còn là ngành, lĩnh vực chứa đựng
nhiều mối quan hệ kinh tế- xã Hội phức tạp. Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn còn giải
quyết các vấn đề xã Hội nan giải (xóa đói giảm nghèo, bài trừ các hủ tục lạc hậu…), thực
hiện các chính sách xã Hội, một vấn đề hết sức quan tâm ở hầu hết các nước và các tổ chức
quốc tế.
Đối với nước ta, đầu tư cho nông nghiệp nông thôn có vai trò hết sức quan trọng ngoài
vấn đề nêu trên còn do:
-Nông nghiệp nông thôn nước ta có vị trí rất quan trọng. Trong nhiều năm chúng ta chỉ
chú ý đến nông nghiệp, lãng quên địa bàn nông thôn: Vì vậy kinh tế nông thôn nước ta chủ
yếu là thuần nông với cơ sở vật chất nghèo nàn, kết cấu hạ tầng thấp kém, sự cách biệt giữa
nông thôn và thành thị, giữa nông nghiệp với các ngành ngày càng lớn.
-Những năm trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung khi chú ý đầu tư cho nông
nghiệp, chúng ta cũng có những sai lầm trong nội dung và phương thức đầu tư, vì vậy hiệu
quả của vốn đầu tư chưa cao. Những năm gần đây, nhờ có những thay đổi về nội dung và
11
Chuyên đề thực tập
phương thức đầu tư, nông nghiệp, nông thôn đã đạt được những kết quả đáng khích lệ và
những bước tiến đáng kể, tuy vậy, vẫn ở trình độ phát triển thấp, đời sống nhân dân nông
thôn còn thấp kém( nhất là ở vùng núi) sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn vẫn còn lớn
và có xu hướng tăng.
Từ những vấn đề nêu trên, để thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển sản xuất hàng
hoá theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từng bước xoá bỏ sự cách biệt với thành thị
và các ngành khác, vốn đóng vai trò hết sức quan trọng, nông thôn nước ta hiện nay đang
thiếu vốn để sản xuất, để mở rộng ngành nghề và dịch vụ, để xây dựng kết cấu hạ tầng. Cần
thiết phải đầu tư vốn cho nông nghiệp, nông thôn( một địa bàn rất quan trọng) nhằm thực
hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế- xã Hội của đất nước đến năm 2010 như nghị
quyết đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã vạch ra.
3)Chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả của vốn tín dụng NHNN&PTNT cho phát triển
kinh tế Hộ.
Một khoản vay coi là có hiệu quả khi hộ vay tiền trả hết lãi và tiền gốc đúng thời hạn
cho ngân hàng và có khoản lãi nhất định, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả và hiệu quả của vốn
tín dụng NHNN&PTNT cho phát triển kinh tế hộ:
3.1)Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn: khả năng thanh toán nợ ngắn hạn được phản ánh ở 2
chỉ tiêu:
-Tỷ lệ lưu hoạt: đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của cơ sở sản xuất
kinh doanh, được tính toán như sau:
Tỷ lệ lưu hoạt= Tổng tài sản lưu động/ tổng nợ ngắn hạn.
-Khả năng thanh toán nhanh: đánh giá khả năng thanh toán nhanh các khoản nợ ngắn hạn
mà không phụ thuộc vào việc bán các tài sản lưu động trong kho, được tính toán theo công
thức:
Khả năng thanh toán nhanh= tiền hiện có/ tổng nợ ngắn hạn.
3.2)Kết quả đầu tư và quản lý tài sản: đánh giá kết quả quản lý và sử dụng tài sản để tạo
doanh thu sản xuất kinh doanh, được biểu hiện ở 3 chỉ tiêu:
-Tỷ lệ doanh thu trên tài sản, được xác đinh như sau:
Tỷ lệ doanh thu trên tài sản=tổng doanh thu/ tổng tài sản trung bình.
12
Chuyên đề thực tập
tổng tài sản trung bình= (tổng tài sản đầu kỳ+tổng tài sản cuối kỳ)/2
-Tỷ lệ doanh thu trên các khoản phải thu(KPT) được phản ánh qua các chỉ tiêu sau:
+tỷ lệ doanh thu trên KPT= tổng doanh thu/KPT trung bình.
KTP trung bình=(KPT đầu kỳ+KPT cuối kỳ)/2
+thời gian thu nợ trung bình=số ngày trong kỳ/ tỷ lệ doanh thu trên KPT.
-Tỷ lệ doanh thu trên sản phẩm tồn kho(SPTK) được xác định như sau:
+Tỷ lệ doanh thu trên SPTK= giá vốn sản phẩm đã bán/SPTK trung bình
SPTK trung bình=(SPTK đầu kỳ+SPTK cuối kỳ)/2
+Thời gian lưu kho=số ngày trong kỳ/tỷ lệ doanh thu trên SPTK
3.3)Tính chủ động về tài chính: được phản ánh qua các chỉ tiêu sau:
-Tỷ lệ nợ: tỷ lệ nợ có thể được biểu hiện qua các chỉ số sau:
+Tỷ lệ nợ=tổng nợ/tổng tài sản
+Tỷ lệ nơ trên vốn chủ sở hữu= tổng nợ/ tổng vốn chủ sở hữu
+Hệ số nhân vốn chủ sở hữu= tổng tài sản/ tổng vốn chủ sở hữu
-Mức độ bao phủ lãi vay: phản ánh khả năng tạo lợi nhuận của cơ sở sản xuất kinh doanh
nông nghiệp để thanh toán chi phí lãi suất tiền vay, được tính toán theo công thức sau:
Mức độ bao phủ lãi vay=lợi tức trước thuế và chi phí lãi vay/ chi phí lãi vay
3.4)Tỷ lệ lợi tức: được phản ánh qua các chỉ tiêu sau:
-Tỷ lệ lợi tức trên tổng doanh thu: tỷ lệ lợi tức phản ánh khả năng của cơ sở sản xuất
kinh doanh nông nghiệp để tạo ra các sản phẩm với mức chi phí thấp hoặc tiêu thụ được
với mức giá bán cao. Nó không phản ánh trực tiếp khả năng sinh lợi bởi vì nó được xem xét
trong mối quan hệ với tổng doanh thu chứ không phải với sự đầu tư tài sản của cơ sở sản
xuất kinh doanh nông nghiệp. Tỷ lệ lợi tức trên tổng doanh thu được biểu hiện ở 2 chỉ số
sau đây:
+Tỷ lệ lợi tức sau thuế= lợi tức sau thuế/ tổng doanh thu
+Tỷ lệ lợi tức thuần=lợi tức trước thuế và chi phí lãi vay/ tổng doanh thu
-Hiệu quả sử dụng tài sản: được biểu hiện ở 2 chỉ tiêu sau:
+Tỷ lệ lợi tức sau thuế trên tài sản=lợi tức sau thuế/ tổng tài sản trung bình.
13
Chuyên đề thực tập
+Tỷ lệ lợi tức trước thuế và chi phí lãi vay trên tài sản= lợi tức trước thuế và chi phí lãi
vay/ tổng tài sản trung bình.
-Hiệu quả sử dụng nguồn vốn chủ sở hữu: được biểu hiện ở các chỉ tiêu sau:
Tỷ lệ lợi tức sau thuế trên vốn chủ sở hữu=lợi tức sau thuế/ nguồn vốn chủ sở hữu trung
bình.
3.5)Tỷ suất lợi nhuận=doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh/vốn tín dụng ngân
hàng(lãi)
3.6)Doanh số cho vay bình quân một hộ.
Doanh số cho vay bình quân một hộ=doanh số cho vay kinh tế hộ/số hộ vay vốn ngân
hàng.
3.7)Chỉ tiêu giá trị hiện tại thức(NPV).
Gía trị hiện tại thực NPV là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh khả
năng sinh lời của một phương án đầu tư.
3.8)Chỉ tiêu tỷ lệ sinh lời IRR.
Chỉ tiêu IRR cho phép nhà đầu tư có thể đầu tư hoặc không đầu tư vào một phương án
có IRR bằng với tỷ lệ chiết khấu lựa chọn, mà nên đầu tư vào phương án có IRR lớn hơn tỷ
lệ chiết khấu lựa chọn.
3.9)Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của cơ sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp thông qua
chỉ tiêu sau:
-Tốc độ chu chuyển của vốn lưu động được thể hiện bằng 2 chỉ tiêu:
+Số lần chu chuyển vốn lưu động trong kỳ kinh doanh.
L=M:Vid
Trong đó:
L: số lần chu chuyển vốn lưu động trong kỳ.
M: tổng mức luân chuyển vốn lưu động trong kỳ.
Vid: số vốn lưu động bình quân trong kỳ.
+Số ngày một lần chu chuyển vốn lưu động.
T=N:L
Trong đó:
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét