luËn v¨n tèt nghiÖp
2. CÁC YẾU TỐ LÀM PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
2.1. Đặc điểm của trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm dân sự mang đầy đủ những đặc điểm chung của loại hình
trách nhiệm pháp lý
Thứ nhất: Trách nhiêm dân sự được coi là một biện pháp cưỡng chế của
pháp luật được thể hiện dưới dạng trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ dân sự và
trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhằm đảm bảo quyền lợi cho bên bị hại
Thứ hai: Cùng với các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ dân sự nó
sẽ đem lại cho người thực hiện nghĩa vụ dân sự những hậu quả bất lợi
Thứ ba: Trách nhiệm dân sự do các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước
thực thi theo trình tự và thủ tục nhất định đối với những ngưòi có hành vi trái
pháp luật gây thiệt hại cho người khác nhưng chưa đủ để chịu trách nhiệm hình
sự trước pháp luật
2.2. Các yếu tố làm phát sinh trách nhiệm dân sự
Theo quy định của của pháp luật thì những trường hợp mà thỏa mãn các
điều kiện sau đây sẽ phát sinh trách nhiệm dân sự :
- Phải có thiệt hại thực tế của bên bị hại
- Phải có lỗi của người gây ra thiệt hại
- Phải có mối quan hệ nhân quả giữa lỗi và thiệt hại thực tế
Trách nhiệm dân sự bao gồm trách nhiệm dân sự trong và ngoài hợp đồng
Trách nhiệm dân sự theo hợp đồng phát sinh trên các cơ sở những thỏa
thuận giữa các bên trong hợp đồng. Như vậy trách nhiệm dân sự theo hợp đồng
chỉ phát sinh khi các bên có những mối quan hệ rằng buộc từ trước và có các
quan hệ trực tiếp đến hợp đồng ký kết, liên quan đến chủ thể ký kết hợp đồng,
họ đều là những người có đầy đủ năng lực hành vi. Nó khác với trách nhiệm dân
sự ngoài hợp đồng chủ thể gây ra có thể là do người hoặc súc vật…
5
luËn v¨n tèt nghiÖp
Bởi vậy trách nhiệm bồi thường cũng có sự khác nhau, liên quan đến
những người đại diện hợp pháp hặc chủ sở hữu (đối với vật và gia súc). Đây
chính là điểm khác nhau cơ bản giữa trách nhiệm dân sự trong và ngoài hợp
đồng. Việc phát sinh trách nhiệm dân sự thường là bất ngờ và không ai có thể
lường trước được. Nhiều những trường hợp thiệt hại vượt quá khả năng tài chính
của cá nhân, tổ chức
Do vậy các cá nhân cũng như các tổ chức đã tìm mọi các biện pháp để
hạn chế và kiểm soát tổn thất như:
- Tự chịu rủi ro
- Né tránh rủi ro
- Bảo hiểm
Tuy nhiên biện pháp ưu việt nhất, tốt nhất là các cá nhân cũng như các tổ
chức nên mua bảo hiểm. Qua đó các cá nhân chuyển giao rủi ro cho nhà bảo
hiểm, bù lại các cá nhân phải đóng cho nhà bảo hiểm một khoản phí và nhà bảo
hiểm sẽ cam kết bồi thường cho người được bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy
ra.
3. BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một loại hình bảo hiểm mà nguời bảo
hiểm cam kết bồi thường phần trách nhiệm dân sự của người bảo hiểm theo cách
thức và hạn mức đã được hai bên thỏa thuận trong hợp đồng với điều kiện người
tham gia bảo hiểm phải đóng một khoản phí tương ứng
Mục đích của người tham gia chính là chuyển giao phần trách nhiệm dân
sự của mình mà chủ yếu là trách nhiệm bồi thường
Nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự ra đời từ rất sớm và ngày càng
phát triển. Hiện nay có rất nhiều các nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm như :
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3
6
luËn v¨n tèt nghiÖp
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hành khách trên
xe
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tầu biển
- Bảo hiểm trách nhiệm đối với hàng hóa vận chuyển trên xe
- Bảo hiểm trách nhiệm đối với sản phẩm và của chủ lao động đối với
người lao động
Mặc dầu có rất nhiều nghiệp vụ bảo hiểm dân sự nhưng mỗi nghiệp vụ
đều mang những đặc điểm chung của bảo hiểm trách nhiệm dân sự :
Thứ nhất: Đối tượng bảo hiểm mang tính trừu tượng. Đó chính là trách
nhiệm hay nghĩa vụ bồi thường. Hơn nữa trách nhiệm là bao nhiêu lại không xác
định được ngay ở lúc tham gia bảo hiểm. Mức độ thiệt hại thường xác định dựa
trên mức độ lỗi của người gây ra và mức độ thiệt hại của bên thứ ba.
Thứ hai: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự thường được thực hiện dưới hình
thức bắt buộc
Thứ ba: Phương thức bảo hiểm có thể là có hoặc không có giới hạn
Bởi vì thiệt hại trách nhiệm dân sự chưa xác định được ngay tại thời điểm
tham gia bảo hiểm và thiệt hại này có thể sẽ là rất lớn. Bởi vậy để nâng cao trách
nhiệm của người tham gia bảo hiểm thì các công ty bảo hiểm thường đưa ra các
hạn mức trách nhiệm, tức là mức bồi thường bị giới hạn bởi số tiền bảo hiểm
Tuy vậy cũng có một số nghiệp vụ bảo hiểm lại không áp dụng hạn
mức trách nhiệm. Hình thức bảo hiểm này khiến các nhà bảo hiểm không xác
định được mức độ thiệt hại của các rủi ro, không xác định được số tiền bảo hiểm
vì vậy trách nhiệm bồi thường chính là toàn bộ trách nhiệm phát sinh của người
được bảo hiểm. Thế nhưng loại bảo hiểm này rất dễ đẩy các công ty vào tình
trạng phá sản. Do vậy khi nhận bảo hiểm không có giới hạn thì các công ty phải
sử dụng các biện pháp nhằm phân tán rủi ro để bảo vệ mình.
7
luËn v¨n tèt nghiÖp
II. SỰ CẦN THIẾT TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ 3
1. ĐẶC ĐIỂM VÀ TÍNH NĂNG ĐỘNG CỦA XE CƠ GIỚI
Xe cơ giới là tất cả các loại xe hoạt động trên đường bộ bằng chính những
động cơ của mình và được phép lưu hành trên lãnh thổ của mỗi quốc gia. Xe cơ
giới chiếm một số lượng lớn và có một vị trí quan trọng trong ngành giao thông
vận tải, một ngành kinh tế có ảnh hưởng tới tất cả các ngành nó là một sợi dây
kết nối các mối quan hệ lưu thông hàng hóa giữa các vùng, giữa trong và ngoài
nước tạo điều kiện phát triển kinh tế và phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân.
Ngày nay vận chuyển bằng xe cơ giới là hình thức vận chuyển phổ biến và sử
dụng rộng rãi trong nền kinh tế quốc dân
Xe cơ giới có tính ưu điểm là tính cơ động cao và linh hoạt có thể di
chuyển trên địa bàn phức tạp, tốc độ cao và chi phí tương đối là thấp. Tuy vậy
vấn đề an toàn đang là vấn đề lớn đang được đặt ra đối với loại hình vận chuyển
này. Đây là hình thức vận chuyển có mức độ nguy hiểm lớn, khả năng xảy ra tai
nạn là rất cao do số lượng đầu xe dày đặc, đa dạng về chủng loại, bất cập về chất
lượng. Hơn nữa hệ thống đường xá ngày càng xuống cấp lại không được tu sửa
kịp thời. Đó chính là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các vụ tai nạn giao
thông gây thiệt hại lớn về người và của cho nhân dân gây mất trật tự an toàn xã
hội.
2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ 3
Sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện cơ giới một mặt đem lại
cho con người một hình thức vận chuyển thuận tiện nhanh chóng kịp thời, giá rẻ
và phù hợp với đại đa số cư dân việt nam hiện nay.
Chỉ tính riêng việt nam hiện nay trong vòng hơn 10 năm qua các phương
tiện cơ giới đã có mức tăng trưởng khá cao đặc biệt là mô tô :
8
luËn v¨n tèt nghiÖp
Từ năm 1990 đến năm 2001 bình quân hằng năm phương tiện cơ giới
đường bộ tăng 17,8% trong đó ô tô tăng 7,6% , xe máy xấp xỉ bằng 19,5%. Năm
2000 so với năm 1990 phương tiện cơ giới đường bộ tăng 4,5 lần, ô tô tăng 2,14
lần, xe máy tăng 4,64 lần. Một đặc điểm về cơ cấu phương tiện cơ giới đường bộ
nước ta là số lượng xe máy chiếm 91% tổng số phương tiện cơ giới đường bộ và
tuy mức độ tăng trưởng cao nhưng nhìn chung mức cơ giới hóa là vẫn còn thấp
so với các nước trong khu vực. Hiện nay Việt Nam có 75 xe trên 1000 dân trong
khi Thái Lan có 190 xe trên 1000 dân, Malaixia 340 xe trên 1000 dân. Tỷ lệ xe
cũ nát có điều kiện an toàn thấp chiếm tỷ trọng lớn và tổng số xe được kiểm
định so với tổng số xe đang lưu hành còn quá thấp
Theo các chuyên gia trong thập kỷ tới phương tiện cơ giới nước ta vẫn
tăng cao. Mức tăng trưởng theo dự báo theo GDP thì cứ mỗi năm khi GDP tăng
1% thì tổng lượng vận tải tăng từ 1,2% đến 1,5% đặc biệt là năm 2006 khi
chúng ta mở cửa và thực hiện các cam kết cắt giảm thuế điều này sẽ dẫn tới một
lượng xe khổng lồ sẽ được nhập vào Việt Nam với giá rẻ phù hợp với túi tiền
người dân
Đối lập với tốc độ gia tăng của các phương tiện giao thông. Tốc độ phát
triển của cơ sở hạ tầng giao thông còn nhiều hạn chế. Theo số liệu thống kê cho
thấy năm 1998 cả nước có 106.134 km đường bộ thì chỉ có khoảng 28,7% là
được giải nhựa nhưng chất lượng kém và ngày càng xuống cấp trầm trọng. Cũng
từ sự phát triển bất hợp lý này đã làm cho tình hình tai nạn giao thông có xu
hướng ngày càng tăng.
Theo số liệu thống kê của cục cảnh sát thì trung bình mỗi ngày xảy ra 33
vụ tai nạn xe cơ giới, làm chết 20 người và bị thương 35 người, chưa kể thiệt hại
về vật chất và tinh thần. Số vụ tai nạn giao thông năm sau cao hơn năm trước là
22,5%, số người bị chết và thương trong năm cao hơn năm trước lần lượt là
27,78% và 30,6%.
9
luËn v¨n tèt nghiÖp
Điểm đáng lưu ý ở dây chính là tai nạn xe cơ giới luôn chiếm tỷ lệ cao
trong các loại hình giao thông vận tải, chiếm 93,7% về số vụ, 94,13% về số
người chết, và 98,8% số người bị thương
Đất nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới đều phải đối mặt với tình
trạng tai nạn giao thông, phải đối mặt với những thiệt hại về người và của mà
các chủ phương tiện và người thiệt hại phải gánh chịu. Làm thế nào để khắc
phục dược những thiệt hại và nâng cao trách hniệm của các chủ phương tiện. Từ
xưa đến nay con người đã tìm ra các biện pháp kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro
thế nhưng biện pháp hữu hiệu nhất là tham gia bảo hiểm.Việc tham gia bảo hiểm
sẽ thành lập nên một quỹ tài chính, quỹ này sẽ chi trả cho các đối tượng tham
gia bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra nhằm giúp đỡ người bị hại ổn định
cuộc sống.
Như vậy nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối
với người thứ 3 ra đời đã đáp ứng nhu cầu của toàn xã hội và cũng là điều mong
muốn thiết tha của các chủ phương tiện.
3. CỞ SỞ HÌNH THÀNH TÍNH BẮT BUỘC CỦA BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ 3
Nhằm nâng cao trách nhiệm của chủ phương tiện xe cơ giới, bảo vệ quyền
lợi của nạn nhân ngày 10/3/88 HĐBT đã ban hành nghị định 30/HĐBT về việc
quy định chế độ bảo hiểm bắt buộc đối với trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới đối với người thứ 3. Ngày 17/12/1997 Chính phủ ban hành nghị điịnh
115/NĐ/CP trong đó quy định rõ chủ xe cơ giới, kể cả chủ xe là người nước
ngoài có giấy phép lưu hành xe trên lãnh thổ Việt Nam đều phải tham gia bảo
hiểm trách nhiệm của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 tại các doanh nghiệp
bảo hiểm trong nước.
Sở dĩ nhà nước ta quy định tính bắt buộc của nghiệp vụ này là do:
10
luËn v¨n tèt nghiÖp
Thứ nhất: Đó là nhằm bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của những
người bị thiệt hại do lỗi của các chủ phương tiện gây ra, đồng thời cũng là bảo
vệ lợi ích của toàn xã hội
Thứ hai: Việc quy định bắt buộc còn nâng cao trách nhiệm trong việc
điều khiển xe, giúp cho các cơ quan quản lý số lượng đầu xe đang lưu hành và
thống kê đầy đủ các vụ tai nạn, cũng như những nguyên nhân của nó để có các
biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất một cách có hiệu quả
Thứ ba: Tính bắt buộc còn xuất phát từ việc thi hành nghiêm túc những
quy định của pháp luật, thực hiện tốt nghĩa vụ dân sự chủ yếu là nghĩa vụ bồi
thường đã được quy định trong bộ luật dân sự, thể hiện sự công minh và công
bằng của pháp luật
4. TÁC DỤNG CỦA BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI
VỚI NGƯỜI THỨ BA
4.1. Đối với chủ xe
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của củ xe cơ giới không chỉ có vai trò to lớn
đối với người bị hại mà còn cả xã hội, nó là tấm lá chắn vững chắc cho chủ xe
khi tham gia giao thông
- Nó tạo tâm lý yên tâm, thoải mái, tự tin khi điều khiển các phương
tiện tham gia giao thông
- Bồi thường chủ động kịp thời cho các chủ xe khi phát sinh trách
nhiệm dân sự góp phần phục hồi lại tinh thần, ổn định sản suất, phát huy quyền
tự chủ về tài về chính, tránh thiệt hại kinh tế cho chủ xe
- Có tác dụng giúp chủ xe có ý thức trong việc đề phòng và hạn chế
tổn thất bằng cách tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối
với người thứ 3.
- Góp phần xoa dịu bớt căng thẳng giữa chủ xe và người bị hại
11
luËn v¨n tèt nghiÖp
4.2. Đối với người thứ ba.
- Nhà bảo hiểm sẽ bồi thường những thiệt hại cho nạn nhân một cách
nhanh chóng kịp thời, không phụ thuộc vào tình trạng tài chính của chủ xe
- Giúp người thứ ba ổn định tài chính và tinh thần
4.3. Đối với xã hội
- Từ công tác giám định bồi thường. Mỗi công ty bảo hiểm sẽ thống
kê các rủi ro và những nguyên nhân gây ra rủi ro để từ đó đề ra các biện pháp đề
phòng và hạn chế tổn thất
- Loại hình bảo hiểm này còn góp phần làm giảm nhẹ gánh nặng cho
ngân sách nhà nước, đồng thời góp phần tăng thu cho ngân sách
Như vậy với tư cách là một nghiệp vụ bảo hiểm mang tính bắt buộc
nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với người thứ 3 vừa
mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội, thể hiện tinh thần tương thân tương ái,
tính nhân văn, nhân đạo cao cả. Mội lần nữa khẳng định tính khách quan cũng
như tính bắt buộc của nghiệp vụ này.
III. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM
DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ 3
1. ĐỐI TƯỢNG BẢO HIỂM VÀ PHẠM VI BẢO HIỂM
1.1. Đối tượng bảo hiểm
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của củ xe cơ giới đối với người thứ 3 là bảo
hiểm trách nhiệm bồi thường của lái xe, chủ xe khi phương tiện đi vào hoạt động
gây thiệt hại cho người thứ 3. Như vậy đối tượng ở đây chính là phần trách
nhiệm dân sự, trách nhiệm bồi thường của chủ xe cơ giới đối với những hậu quả
tính được bằng tiền theo quy định của pháp luật khi chủ phương tiện gây tai nạn
làm thiệt hại về tính mạng tài sản, tinh thần cho bên thứ 3.
12
luËn v¨n tèt nghiÖp
Tuy nhiên cần lưu ý rằng bên thứ 3 trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự
của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 là những người trực tiếp bị thiệt hại do
hậu quả của các vụ tai nạn ngoại trừ:
- Lái, phụ xe, nguời làm công cho chủ xe
- Những người mà lái xe phải nuôi dưỡng như cha mẹ, vợ, chồng, con cái
- Hành khách đi trên xe
- Tài sản tư trang hành lý của những người nói trên
- Các khoản phạt mà chủ xe, lái xe phải gánh chịu
Đối tượng được bảo hiểm không xác định được từ trước chỉ khi nào lưu
hành xe gây tai nạn có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với
người thứ 3 thì đối tượng mới được xác định cụ thể.
Các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với
người thứ 3 bao gồm:
- Có thiệt hại về tài sản, tính mạng hay sức khỏe của bên thứ 3
- Chủ xe phải có hành vi trái pháp luật. Có thể do vô tình hay hay cố ý mà
lái xe vi phạm luật giao thông đường bộ hoặc là vi phạm các quy định khác của
nhà nước
- Phải có mối quan hệ nhân quả giữa lỗi và thiệt hại thực tế
- Chủ xe, lái xe phải có lỗi
Trên thực tế chỉ cần đồng thời xảy ra 3 điều kiện thứ 1, thứ 2, thứ 3 là đã
phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3. Nếu thiếu
một trong 3 điều kiện đó thì sẽ không phát sinh trách nhiệm dân sự. Điều kiện 4
có thể có hoặc không vì nhiều khi tai nạn xảy ra là do tính nguy hiểm cao độ của
xe cơ giới mà hoàn toàn không có lỗi của chủ xe
13
luËn v¨n tèt nghiÖp
1.2. Phạm vi bảo hiểm
1.2.1 Các rủi ro được bảo hiểm
Trong nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với
người thứ 3 các công ty bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm cho những rủi ro bất ngờ
không thể lường trước được gây tai nạn và làm phát sinh trách nhiệm dân sự của
chủ xe
Công ty bảo hiểm sẽ bồi thường những thiệt hại về vật chất và tinh thần,
về con người, tài sản được tính toán theo những nguyên tắc nhất định. Ngoài ra
thì công ty bảo hiểm còn phải thanh toán cho chủ xe những khoản chi phí mà họ
đã chi ra nhằm đề phòng thiệt hại. Những chi phí này chỉ được bồi thường khi
nó phát sinh sau khi tai nạn xảy ra và được coi là cần thiết và hợp lý.
Trách nhiệm bồi thường của công ty bảo hiểm được hạn mức trong mức
trách nhiệm ghi trong hợp đồng hay giấy chứng nhận bảo hiểm. Trong bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với người thứ 3 các thiệt hại nằm trong
phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm gồm:
- Thiệt hại về tính mạng và tình trạng sức khỏe của bên thứ 3
- Thiệt hại về tài sản, hàng hoá của bên thứ 3
- Thiệt hại về tài sản làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh hoặc làm
giảm thu nhập
- Các chi phí cần thiết và hợp lý để thực hiện các biện pháp đề phòng và
hạn chế tổn thất, các chi phí đề xuất của bên bảo hiểm
- Những thiệt hại về tính mạng và tình trạng sức khoẻ của những nguời
tham gia cứu chữa, ngăn ngừa tai nạn, chi phí cấp cứu và chăm sóc nạn nhân
Tuy nhiên căn cứ vào tình hình thực tế và nhu cầu của người bảo hiểm mà
các công ty bảo hiểm có thể mở rộng phạm vi bảo hiểm cho những loại rủi ro
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét