Thứ Năm, 27 tháng 2, 2014

XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở SƠN LA

nước tỉ lệ này là 97%, vùng Trung du miền núi Bắc bộ là 56,14%. Việc tăng
diện tích đất sử dụng phần lớn do sự tăng nhanh diện tích đất lâm nghiệp, phủ
xanh đất trống, đồi núi trọc, phát triển diện tích rừng sản xuất. Diện tích đất sử
dụng sẽ có thay đổi khi thủy điện Sơn La hoàn thành vào năm 2012. Theo tính
toán Sơn La có 3 huyện bị ngập, tổng diện tích bị ngập khoảng 13.730 ha, trong
đó có 6.321 ha đất nông nghiệp (bình quân mỗi hộ mất khoảng 0,65 ha đất nông
nghiệp, trong đó ruộng nước 0,13 ha), đất rừng 2.451 ha, đất chưa sử dụng 7.214
ha… Bên cạnh đó, sẽ xuất hiện các vùng bán ngập với diện tích hàng trăm ha, có
thể tận dụng diện tích này để trồng trọt vào mùa chưa bị ngập.
Biểu 1. Hiện trạng tài nguyên đất và dự báo sử dụng quỹ đất tỉnh Sơn La
STT Chỉ tiêu
Đơn
vị
1995 2000 2005 2010 2020
Tổng diện tích tự nhiên ha 1.405.500 1.405.500 1.412.500 1.412.500 1.412.500
1 Đất nông nghiệp ha 367.334,10 521.190,31 828.010,60 971.845 1.050.688
% so với diện tích tự nhiên % 26,14 37,08 58,62 68,80 74,38
1.1 Đất sản xuất nông nghiệp ha 153.866,19 188.435,39 248.244,01 196.570 198.295
% so với diện tích tự nhiên % 10,95 13,41 17,57 13,92 14,04
1.2 Đất lâm nghiệp ha 212.387,20 331.120 577.638,09 773.025 850.000
% so với diện tích tự nhiên % 15,11 23,56 41 55 60
1.3 Đất nuôi trồng thuỷ sản ha 1.077,91 1.627,12 2.087,52 2.216,5 2.368,4
1.4 Đất nông nghiệp khác ha 2,8 7,8 40,98 33,5 24,6
2 Đất phi nông nghiệp ha 32.908,46 37.934,15 41.445,73 50.625 55.812
% so với diện tích tự nhiên % 2,34 2,70 2,93 3,58 3,96
2.1 Đất ở ha 4.859,79 5.755,58 6.534,1 6.766 7.000
% so với diện tích tự nhiên % 0,35 0,41 0,46 0,48 0,50
2.1.1 Đất ở nông thôn ha 4.368,21 5.345,58 6.068,49 5.816 5.500
2.1.2 Đất ở đô thị ha 491,58 410 465,61 950 1.500
2.2 Đất chuyên dùng ha 7.719,65 10.226,13 13.024,75 22.257 23.830
% so với diện tích tự nhiên % 0,55 0,73 0,92 1,58 1,82
2.3 Đất nghĩa trang, nghĩa địa ha 3.436,66 3.687,02 2.669,29 2.574 2405
2.4
Đất sông suối và mặt nước
CD
ha 15.751,33 18.124,25 19.077,48 18.895,5 22.478,4
2.5 Đất phi nông nghiệp khác ha 60,32 141,17 140,11 132,5 98,6
3 Đất chưa sử dụng ha
1.005.257,
4
846.375,54 543.043,67 388.020 306.000
% so với diện tích tự nhiên % 71,52 60,22 38,45 27,47 21,66
3.1 Đất bằng chưa sử dụng ha 929,62 380,22
3.2 Đất đồi núi chưa sử dụng ha 91.6861,82 78.1619,33 496.451,67 344.975 265.875
3.3 Núi đá không rừng cây ha 87.466 64.375,99 46.592 43.045 40.125
Nguồn: Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Sơn La.
5
Như vậy, đến hết năm 2005, đất chưa sử dụng và sông suối còn rất lớn:
543.043,67 ha, chiếm 38,45% diện tích tự nhiên, trong đó có 496.451,67 ha là
đất đồi núi không có rừng cần phải được khai thác để trồng rừng phòng hộ, rừng
kinh tế, trồng cây công nghiệp dài ngày, ngắn ngày, ngô, khoai sắn tạo thêm
lương thực, vì vậy dự báo đến năm 2020 số diện tích đất chưa sử dụng chỉ còn
306.000 ha.
Là một tỉnh vùng cao, quỹ đất nông nghiệp hạn chế, đặc biệt ruộng nước bình
quân đầu người chỉ có 0,017 ha/người (cả nước là 0,05 ha/người). Hướng tới cần khai
thác hết diện tích đất bằng và một phần đất đồi núi cho sản xuất nông nghiệp, dự tính
quỹ đất để phát triển cây công nghiệp dài ngày như cà phê, chè, cây ăn quả vẫn còn
22.600 ha, quỹ đất cho đồng cỏ trồng chăn nuôi trên 3.000 ha. Nếu công trình thủy
điện Sơn La hoàn thành, sẽ có thêm 13.700 ha mặt nước hồ. Khi đó toàn tỉnh sẽ có
khoảng gần 25.000 ha ao, hồ và hồ sông Đà là tiền đề để Sơn La phát triển mạnh nuôi
trồng và khai thác thủy sản.
2. Khí hậu, thuỷ văn
Sơn La có khí hậu nhiệt đới gió mùa vùng núi, mùa đông lạnh khô, mùa
hè nóng ẩm mưa nhiều. Địa hình bị chia cắt sâu và mạnh hình thành nhiều tiểu
vùng khí hậu cho phép phát triển một nền sản xuất nông - lâm nghiệp phong
phú. Vùng Cao nguyên Mộc Châu rất phù hợp với cây trồng và con nuôi vùng
ôn đới. Vùng dọc sông Đà phù hợp với cây rừng nhiệt đới xanh quanh năm,…
Những năm gần đây nhiệt độ không khí trung bình/năm có xu hướng tăng
hơn 20 năm trước đây từ 0,5
0
C - 0,6
0
C (Thị xã Sơn La từ 20,9
0
C lên 21,1
0
C Yên
Châu từ 22,6
0
C lên 23
0
C) lượng mưa trung bình năm có xu hướng giảm: Thị xã
từ 1.445 mm xuống 1.402 mm, Mộc Châu từ 1.730 mm xuống 1.563 mm; độ ẩm
không khí trung bình năm cũng giảm, hiện tại ở Thị xã độ ẩm không khí trung
bình cả năm là 82%, Yên Châu 80%; số ngày có gió Tây khô nóng trung bình
năm tăng lên: Thị xã từ 1,27 ngày tăng lên 4,3 ngày, Yên Châu từ 34 ngày tăng
lên 37,2 ngày.
Do tình hình khô hạn kéo dài vào mùa đông nên khó tăng vụ trên diện tích
canh tác, cộng với gió Tây khô nóng vào những tháng cuối mùa khô đầu mùa
mưa (tháng 3 – 4) đã gây không ít khó khăn cho sản xuất và đời sống của một số
vùng trong tỉnh. Sương muối, mưa đá, lũ quét cũng là những nhân tố gây bất lợi
cho sản xuất, đời sống.
Trong thời gian tới khi có thuỷ điện Sơn La, hệ thống hồ dọc Sông Đà
được hình thành có thể tình hình khí hậu khô nóng vào mùa khô sẽ được cải
thiện theo hướng có lợi cho sản xuất và đời sống.
Nước: Sơn La có hệ thống sông suối khá dầy nhưng phần lớn mặt nước
thấp hơn mặt đất canh tác, vì vậy biện pháp giải quyết nước là phải làm hồ chứa,
đập dâng cắt lũ mùa mưa, chứa nước mùa khô, ống dẫn, bơm điện, khai thác
6
nước ngầm và tăng tỷ lệ che phủ của rừng để ổn định nguồn sinh thuỷ… Song,
với địa hình khó khăn hiểm trở, phức tạp đòi hỏi vốn đầu tư xây dựng cao.
Sông suối ở Sơn La có độ dốc lớn, trắc diện hẹp nên tiềm năng thuỷ điện
khá lớn. Hầu hết mọi nơi trong tỉnh đều có điều kiện làm thuỷ điện cực nhỏ,
ngoài 96 điểm xây dựng được thuỷ điện vừa và nhỏ với tổng công suất 134 MW
còn có công trình thuỷ điện Suối Sập 11,8 MW, thuỷ điện Nậm Chiến công suất
210 MW, thuỷ điện Huổi Quảng công suất 540 MW và đặc biệt là công trình
thuỷ điện Sơn La với công suất 2.400 MW đang được khởi công xây dựng góp
phần to lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Sơn La thời kỳ
2005 - 2010 và 2020.
3. Tài nguyên rừng
Sơn La là một trong những tỉnh có diện tích rừng và đất có khả năng phát
triển lâm nghiệp khá lớn (chiếm 73% diện tích tự nhiên), đất đai phù hợp với
nhiều loại cây, có điều kiện xây dựng hệ thống rừng phòng hộ và tạo các vùng
rừng kinh tế hàng hoá có giá trị cao. Rừng Sơn La có nhiều thực vật quý hiếm,
có các khu đặc dụng có giá trị nghiên cứu khoa học và phục vụ du lịch, sinh thái
trong tương lai.
Đến năm 2005 diện tích rừng của Sơn La chỉ còn 577.638,09 ha, trong đó
rừng sản xuất 47.856,69 ha, rừng phòng hộ 482.980,42. Độ che phủ của rừng đạt
41% (so với toàn quốc là 40%, như vậy độ che phủ của rừng Sơn La còn thấp so
với yêu cầu và đặc điểm của một vùng đất dốc núi cao, mưa lớn và tập trung
theo mùa, lại có vị trí là mái nhà phòng hộ cho đồng bằng Bắc Bộ, điều chỉnh
nguồn nước cho thuỷ điện Hoà Bình…
Sơn La có 4 khu rừng đặc dụng bảo tồn thiên nhiên: Xuân Nha (Mộc
Châu) 27.084 ha; Sốp Cộp 18.709 ha; Copi A (Thuận Châu) 19.354 ha; Tà Xùa
(Bắc Yên) 17.650 ha.
Về trữ lượng rừng: Theo số liệu kiểm kê của Đoàn điều tra quy hoạch và
phát triển nông thôn tỉnh Sơn La, toàn tỉnh có 16,5 triệu m
3
gỗ và 203,3 triệu cây
tre nứa, chủ yếu là rừng tự nhiên, còn đối với rừng trồng chỉ có trữ lượng gỗ 154
ngàn m
3
và 220 ngàn cây tre nứa.
Toàn tỉnh có 543.043,67 ha đất chưa sử dụng (chiếm 38,45% tổng diện
tích tự nhiên), trong đó đất có khả năng phát triển nông lâm nghiệp khoảng
440.719 ha (phần lớn dùng cho phát triển lâm nghiệp). Đây cũng là nguồn tài
nguyên quý giá, một thế mạnh cho phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh giai đoạn
2006-2020.
Khi có thuỷ điện Sơn La sẽ có 1 phần rừng và đất rừng bị ngập, theo tính
toán có khoảng 2.451 ha rừng sẽ bị ngập, trong đó chủ yếu là rừng phòng hộ.
Nhiệm vụ quan trọng là phải tận thu cây trong lòng hồ trước khi nước ngập và
sau đó là trồng rừng phòng hộ dọc theo 2 bên sông Đà và toàn lưu vực để bảo vệ
nguồn nước cho công trình thuỷ điện quan trọng này.
7
4. Khoáng sản
Sơn La có nhiều loại khoáng sản khác nhau (gần 150 điểm), song chủ yếu
là mỏ nhỏ, phân bố rải rác trên khắp địa bàn tỉnh, trữ lượng không lớn và điều
kiện khai thác không thuận lợi.
+ Than: Có đủ các loại than mỡ, than gầy, than bùn, than nâu, tổng số
trên 10 mỏ và điểm than nhiên liệu với trữ lượng tiềm năng trên 40 triệu tấn,
trong đó trữ lượng đã thăm dò trên 3 triệu tấn. Tuy trữ lượng không lớn nhưng
trên dưới 50% là than mỡ, có khả năng luyện cốc, loại than mà hiện nay nước ta
rất thiếu và phải nhập khẩu với giá cao.
Các mỏ than tương đối lớn ở Sơn La có mỏ than Suối Bàng - Mộc Châu
(trữ lượng vài triệu tấn), mỏ than Quỳnh Nhai (trữ lượng 578 ngàn tấn), mỏ than
Hang Mon - Yên Châu (trữ lượng 1 triệu tấn), mỏ than Mường Lựm - Yên Châu
(trữ lượng trên 80 ngàn tấn), mỏ than Suối Lúa - Phù Yên… dự kiến sản lượng
khai thác trong vài năm tới đạt 2-3 vạn tấn than/năm và ngoài năm 2000 nâng
lên 20-25 vạn tấn than/năm, để dần dần thay thế việc phải đưa than từ Quảng
Ninh lên vùng Tây Bắc.
+ Nguồn đá vôi và sét: Với trữ lượng khá lớn, phân bố tương đối rộng,
đang được khai thác, cho phép phát triển mạnh sản xuất xi măng, gạch ngói
phục vụ nhu cầu trong tỉnh và xây dựng công trình thủy điện Sơn La. Đáng kể
có mỏ sét xi măng Nà Pó trữ lượng 16 triệu tấn, mỏ sét xi măng Chiềng Sinh trữ
lượng 760 ngàn tấn.
+ Ni ken-đồng có 8 điểm quặng và mỏ: Bản Mông, Bản Khoa, Bản Phúc,
Bản Chang, Vạn Sài, Suối Ba, Suối Đơn và Hua Păng. Song đáng kể là mỏ Bản
Phúc huyện Bắc Yên có trữ lượng 984.000 tấn quặng với hàm lượng ni ken
3,55%, đồng 1,3%. Đã có dự án khả thi liên doanh với các Công ty tài nguyên
khoáng sản nước ngoài, thời gian khai thác 13 năm với tổng lợi nhuận thu được
60,52 triệu USD và giá trị lãi ròng bình quân/năm từ 1,3 đến 1,56 triệu USD.
+ Vàng: Có 4 mỏ sa khoáng và 3 điểm vàng gốc đều thuộc loại mỏ nhỏ
C1 + C2 < 500 kg, có triển vọng là mỏ vàng sa khoáng Pi Toong huyện Mường
La, Mu Lu huyện Mai Sơn. Cần khuyến khích và thu hút đầu tư, tranh thủ công
nghệ tiên tiến nhằm khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên này.
+ Bột tan có nhiều điểm mỏ, đáng kể là mỏ tan Tà Phù huyện Mộc Châu
có trữ lượng 2,3 vạn tấn, có giá trị xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.
5. Tiềm năng du lịch
Sơn La có điều kiện phát triển du lịch thuận lợi do có nhiều danh lam
thắng cảnh, hang động kỳ thú, các mỏ suối nước khoáng nóng, vùng hồ Sông
Đà, các di tích lịch sử cách mạng như Nhà tù Sơn La, cây đa bản Hẹo, Văn bia
Quế lâm ngự chế Có thể kết hợp với các tỉnh bạn để phát triển du lịch sinh
thái, du lịch lịch sử, du lịch văn hoá… Đặc biệt có triển vọng là phát triển tour
du lịch Mộc Châu và thuỷ điện Sơn La - công trình thuỷ điện lớn nhất cả nước.
8
Sau khi thuỷ điện được hoàn thành, đập và hồ thuỷ điện chắc chắn sẽ là nơi
tham quan, du lịch lý tưởng cho nhiều du khách.
Như vậy sắp tới trên địa bàn tỉnh Sơn La có hồ thuỷ điện Sơn La, cùng
với 4 vườn quốc gia (Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Nha-Mộc Châu, Khu bảo
tồn thiên nhiên Sốp Cộp, Khu bảo tồn thiên nhiên Co Mạ-Thuận Châu, Tà Xùa -
Bắc Yên), còn có 4 hang động được xếp hạng, 4 mỏ nước nóng, có nhiều bản
làng văn hoá dân tộc, có các lễ hội dân tộc như: lễ hội mùa xuân dân tộc Mông
huyện Mộc Châu; Hội Then dân tộc Thái huyện Quỳnh Nhai, Thuận Châu, Yên
Châu; Lễ hội cầu mùa dân tộc Khơ Mú huyện Yên Châu; Lễ Mởi dân tộc
Mường huyện Phù Yên… đều có thể khai thác để phục vụ du lịch.
III. NGUỒN NHÂN LỰC
Ngoài các yếu tố tự nhiên, yếu tố nguồn nhân lực có vai trò quyết định
đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
Dân số trung bình toàn Tỉnh Sơn La năm 2004 có: 975.994 người, dân số
năm 2005 khoảng 992.700 người, mật độ bình quân 70 người/km
2
, trong đó nam
là 498.137 người (chiếm 50,18%), nữ 494.563 người (chiếm 49,82%). Dân số
khu vực thành thị chiếm 12%; dân số khu vực nông thôn chiếm 88% tổng số dân
toàn tỉnh. Tốc độ tăng dân số tự nhiên năm 2004 là 1,75%/năm, năm 2005
khoảng 1,69% (chủ yếu là tăng dân số cơ học do sức hút của Thuỷ điện Sơn La).
Tốc độ tăng dân số bình quân giai đoạn 2000 – 2004 ở mức 1,85%.
Chương trình dân số, kế hoạch hoá gia đình quốc gia trên địa bàn tỉnh đã
góp phần quan trọng cải thiện chất lượng dân số, giảm thiểu chất lượng tăng dân
số trong những năm gần đây.
Toàn tỉnh có 12 Dân tộc anh em (là tỉnh có nhiều dân tộc thiểu số), trong
đó dân tộc Thái chiếm có dân số lớn nhất, chiếm gần 55% dân số toàn tỉnh. Các
dân tộc có dân số đông tiếp theo là dân tộc Kinh 18%, dân tộc Mông 12%, dân
tộc Mường 8,4%, dân tộc Dao 1,82%, dân tộc Khơ Mú 1,89% Nhìn chung đời
sống vật chất, tinh thần của đại bộ phận nhân dân được cải thiện đáng kể. Phong
tục tập quán của các dân tộc được bảo tồn và phát huy cùng với việc du nhập các
giá trị văn hoá mới, hiện đại. Các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan… đang dần
được xoá bỏ.
Lao động trong độ tuổi năm 2005 khoảng 524.950 người, chiếm 52,8%
dân số toàn tỉnh, trong đó nam là 293.447 người, nữ là 231.503 người. Bình
quân hàng năm, lực lượng lao động của Tỉnh tăng thêm khoảng 2 vạn người.
Lao động thành thị 88.769 người chiếm tỷ lệ 16,91%, lao động nông thôn
436.181 người chiếm tỷ lệ 83,09% tổng số lao động toàn tỉnh. Theo ngành kinh
tế, lao động trong nông nghiệp vẫn chiếm trên 85% tổng số lao động trong các
ngành kinh tế; lao động trong ngành công nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ thấp. Chất
lượng nguồn lao động đã được nâng cao đáng kể, tỷ lệ lao động qua đào tạo đến
năm 2004 đạt khoảng 11%. Trong số lao động được đào năm 2004 có bằng cấp
9
trên 10.000 người trong đó: trình độ trên đại học 52 người, đại học cao đẳng
5.521 người, trung học và đào tạo nghề 4.427 người; ngoài ra lao động có trình
độ lao động phổ thông 250.000 người.
Tỷ lệ lao động chưa giải quyết được việc làm đến năm 2004 chỉ còn
4,29%, là mức khá thấp so với bình quân cả nước. Như vậy, số người cần việc
làm trong thời gian tới của Tỉnh không phải là sức ép lớn, vấn đề quan trọng là
đào tạo và đào tạo lại lực lượng lao động để chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tuyển
dụng nhân công.
Dự báo tăng dân số tự nhiên:
Giả thiết rằng, tỷ lệ tăng tự nhiên dân số của tỉnh trong giai đoạn 2006-
2015 cao hơn trung bình cả nước, do đặc điểm miền núi, nhưng sẽ giảm dần tiến
tới tốc độ tăng như cả nước. Hiện nay, do người dân chưa hiểu rõ chính sách dân
số mới, dẫn đến tỷ lệ sinh cao, tỷ lệ tăng tự nhiên giảm chậm hơn những năm
1990-2000, dự kiến trong giai đoạn 2006-2015 là 0,014-0,015%/năm. Trong giai
đoạn 2016-2020, tỷ lệ tăng tự nhiên có xu hướng giảm nhanh hơn, dự kiến là
0,026%, do biến đổi cơ cấu dân số, tỷ trọng người cao tuổi ngày một tăng.
Biểu 2. Dự báo tăng dân số và lao động tự nhiên
Dân số
(1000 người)
Dân số trong độ tuổi LĐ
(1000 người)
Lao động/dân số
(%)
2005 992,7 524,95 52,8
2010 1.088 592,4 54,4
2015 1.165 660,9 56,7
2020 1.248 726,6 58,2
Giả thiết rằng tốc độ tăng lực lượng lao động thời kỳ 2006-2020 xấp xỉ
tốc độ tăng dân số trong thời kỳ 1990-2005 do dân số sinh ra trong giai đoạn
1991-1995 sẽ trở thành lao động trong giai đoạn 2006-2010, tương ứng dân số
giai đoạn 2001-2005 sẽ trở thành lao động giai đoạn 2016-2020. Bên cạnh đó,
một phần lao động và những người đi theo xây dựng công trình thuỷ điện Sơn
La sẽ ở lại cũng đóng góp vào lực lượng lao động, bởi chủ yếu là những người
trẻ, trong độ tuổi lao động. Cùng với việc loại trừ một bộ phận trẻ sinh ra không
phát triển lên lực lượng lao động, một phần nguồn nhân lực đi học, thoát ly
không quay trở lại Sơn la, có thể coi tốc độ tăng lực lượng lao động trời kỹ 2006
– 2020 xấp xỷ tốc độ tăng dân số thời kỳ 1990 – 2005. Theo số thống kê, tốc độ
tăng dân số 1991-1995 là 2,92%; 1996-2000 là 2,21%; 2001-2005 là 1,91%.
Như vậy có thể giả thiết, tốc độ tăng lao động giai đoạn 2006-2010 là 2,88%;
2011-2005: 2,19% và 1,90% trong giai đoạn 2016-2020.
Dự báo tăng dân số cơ học:
Theo tiến độ xây dựng công trình thuỷ điện Sơn La thì thời kỳ cao điểm số
lượng lao động ở đây có thể lên đến 10.000 người, nếu kể cả số người đi theo thì
số dân tăng cơ học này có thể tới 20 ngàn người. Lúc này mọi dịch vụ, ăn, ở, đi
10
lại, việc làm… cần phải được đáp ứng ngay trong thời kỳ xây dựng thuỷ điện và
cả khi thuỷ điện đã hoàn thành vẫn còn một lực lượng không nhỏ có thể ở lại sinh
sống, lao động tại Sơn La (có ý kiến cho rằng khoảng 2 nghìn người sẽ ở lại).
Đại bộ phận nhân dân các dân tộc Sơn La sống ở nông thôn với nghề nông
là chủ yếu, vốn là những người cần cù lao động.
Trình độ dân trí nhìn chung còn thấp và đang từng bước được nâng lên,
trên 80% trẻ em trong độ tuổi 6 -14 được phổ cập giáo dục tiểu học, trên 90%
người lao động ở độ tuổi từ 15 - 35 tuổi được công nhận xoá mù chữ. Kết quả
tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng, trung học và công nhân kỹ thuật
trong 10 năm qua được hơn 2 vạn người, hàng vạn lao động được chuyển giao kỹ
thuật sản xuất dạy nghề, hàng nghìn cán bộ được đào tạo lại về lý luận quản lý
kinh tế, quản lý nhà nước, đặc biệt tập trung mạnh cho đào tạo cán bộ xã, phường.
Số lao động có tri thức ngày càng được phát triển đã và đang tiếp cận với điều
kiện mới của nền kinh tế thị trường, có những đóng góp đáng kể cho sự phát
triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.
Một vấn đề quan trọng khác là phải di dân khỏi lòng hồ thuỷ điện. Đây là
một nhiệm vụ vô cùng to lớn. Ngay từ năm 1998, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn phối hợp với Tổng công ty điện lực Việt Nam và UBND của 3 tỉnh
Sơn La, Điện Biên và Lai Châu đã điều tra thống kê thiệt hại của Dự án thuỷ
điện Sơn La theo các phương án tuyến và quy mô công trình. Quy hoạch tổng
thể di dân, tái định cư dự án thuỷ điện Sơn La đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt tại Quyết định số 196/2004/QĐ-TTg ngày 29 tháng 11 năm 2004. Theo
Quy hoạch này thì số hộ trên địa bàn Sơn La cần phải di chuyển cho xây dựng
thủy điện Sơn La là 12.500 hộ. Bên cạnh đó, các thủy điện Nậm Chiến, Huổi
Quảng, có công suất khá lớn từ 200 - 540MW đang trong giai đoạn khởi công
cũng đòi hỏi việc di dân, tái định cư. Đây thực sự là một công việc đồ sộ đối với
tỉnh từ nay đến 2010.
11
Phần II
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VỀ
KINH TẾ, XÃ HỘI, MÔI TRƯỜNG CỦA TỈNH TRONG NHỮNG NĂM QUA.
I/- NHỮNG MẶT ĐẠT ĐƯỢC TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
CỦA TỈNH NHỮNG NĂM VỪA QUA:
1. Về kinh tế:
1.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế:
Duy trì được tốc độ tăng trưởng khá: tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) có
tốc độ tăng trưởng bình quân năm, thời kỳ 2001 - 2004 là 10,6%/năm (cả nước
là 7,05%/năm), nếu năm 2005 đạt tốc độ 16% thì bình quân thời kỳ 2001 - 2005
là 11,65%/năm. GDP năm 2000 đã gấp 1,55 lần so với năm 1995 và GDP năm
2005 đã tăng gấp 1,73 lần so với năm 2000. Như vậy nền kinh tế của tỉnh những
năm gần đây có tốc độ tăng trưởng khá và bình quân giai đoạn sau cao hơn giai
đoạn trước, năm sau cao hơn năm trước.
Trong tăng trưởng chủ yếu do sự tăng trưởng mạnh của khối công nghiệp
- xây dựng: giai đoạn 1996 - 2000 là 10,68%/năm thì ở giai đoạn 2001 - 2005
tăng trưởng bình quân 27,2%/năm.
Tiếp đến là giá trị gia tăng ngành dịch vụ cũng khá, giai đoạn 1996 - 2000
là 16,73%/năm, giai đoạn 2001 - 2005 là 16,5%/năm.
Giá trị gia tăng nông lâm nghiệp thuỷ sản thời kỳ 1996 - 2000 là
6,37%/năm, thời kỳ 2001 - 2005 là 5,1%/năm.
1.2. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Trong những năm gần đây, cơ cấu kinh tế toàn tỉnh đã có bước chuyển
dịch quan trọng, đúng hướng, phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của đất
nước trong xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng công nghiệp - xây
dựng và dịch vụ trong GDP toàn tỉnh tăng dần, đồng thời tỷ trọng nông nghiệp
trong GDP có xu hướng giảm xuống.
- Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản: tuy giá trị tuyệt đối của ngành vẫn tăng với
tốc độ khá, song tỷ trọng GDP của ngành giảm từ 71,5% (năm 1995) xuống
60,96% (năm 2000) xuống 47,99% (năm 2004) và còn 45% (năm 2005).
- Công nghiệp xây dựng: tỷ trọng GDP của ngành tăng từ 9,49% (năm
2000) lên 17,51% (năm 2004) và năm 2005 tăng lên 19%.
- Dịch vụ: tỷ trọng GDP của ngành trong cơ cấu kinh tế toàn tỉnh vẫn tăng
đều qua các năm, tăng từ 18,75% (năm 1995) lên 29,55% (năm 2000), lên
34,5% (năm 2004) và năm 2005 tăng lên 36%.
Cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có sự chuyển biến đáng kể, chuyển dịch từ nền
kinh tế thuần nông tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá gắn với thị trường. Tuy
12
vậy ngành nông lâm nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao, tỷ trọng ngành công nghiệp
tăng chậm và chưa vững chắc, dịch vụ và các nàgnh khác tăng nhanh hơn.
1.3. Về sản xuất nông nghiệp:
Trong ngành nông nghiệp bước đầu thực hiện có hiệu quả việc chuyển đổi
cơ cấu sản xuất theo hướng khai thác lợi thế sản xuất hàng hoá, nổi bật là sự
chuyển đổi cơ cấu cây trồng , con nuôi, cơ cấu mùa vụ, xác định được một số
mặt hàng xuất khẩu chủ lực, từng bước hình thành vùng sản xuất cây công
nghiệp, con nuôi tập trung, chuyên canh, thâm canh gắn với công nghiệp chế
biến và tiêu thụ sản phẩm.
- Sản xuất lương thực theo quan điểm sản xuất hàng hoá, đã chú trọng
thâm canh tăng vụ, ứng dụng giống mới và các tiến bộ kỹ thuật, mặc dù diện
tích lúa nương trên đất dốc đã giảm mạnh từ 24.997 ha năm 1995 xuống 14.928
ha năm 2004, nhưng sản lượng lương thực có hạt tăng cao và ổn định, từ
145.016 tấn năm 1995 tăng lên 243.895 tấn năm 2000 và đạt 352.540 tấn năm
2004, tốc độ tăng bình quân hàng năm giai đoạn 2000 - 2004 là 9,65%; trong đó
phần tăng của diện tích là 3,55%. Lương thực có hạt bình quân đầu người tăng
từ 217,8 kg năm 1995 lên 361 kg/người/năm (năm 2004). Sơn La đã đảm bảo
được an ninh lương thực theo quan điểm sản xuất hàng hoá.
- Cây công nghiệp chủ lực tiếp tục được điều chỉnh theo hướng đầu tư
chiều sâu, đã và đang hình thành các vùng sản xuất tập trung gắn với công
nghiệp chế biến và thị trường. Tổng diện tích cây công nghiệp chủ lực tăng từ
4.544 ha năm 1995 lên 10.860 ha năm 2005 tăng gấp 2,38 lần so với năm 1995
(chè 4.460 ha, cà phê 2.900 ha, mía 3.500 ha).
- Cây ăn quả: phát triển cả về quy mô và chủng loại, đã nhập nội giống
cây ăn quả ôn đới chất lượng cao, bước đầu đem lại kết quả khả quan cả về diện
tichs và sản lượng cây ăn quả tăng nhanh, từ 10.896 ha; 26.956 tấn quả năm
1995 đã tăng lên 25.900 ha và 60.000 tấn quả vào năm 2005 so với năm 2000 thì
diện tích tăng 38,6%, sản lượng tăng 46,1%.
- Chăn nuôi: phát triển mạnh cả về quy mô và chất lượng, đặc biệt với đàn
trâu, bò là một lợi thế đã tăng nhanh so với năm 2000, năm 2005 đàn trâu đã có
144.340 con tăng 16.1%, đàn bò có 119.000 con tăng 31,5% trong đó có 5.000
con bò sữa, 2.500 con bò thịt chất lượng cao, khai thác có hiệu quả mặt nước ao
hồ để nuôi thả cá. Năm 2005 sản lượng thịt hơi các loại đạt 25.000 tấn gấp 2,29
lần, sản lượng cá đạt 3.430 tấn gấp 1,57 lần so với năm 2000.
- Lâm nghiệp: công tác bảo vệ và phát triển rừng có nhiều tiến bộ; nâng
độ che phủ của rừng từ 9,5% năm 1990 lên 41% năm 2005. Bình quân mỗi năm
tăng 28.000 ha rừng do khoanh nuôi tái sinh thành rừng và do trồng rừng đã
khép tán.
Tuy quy mô còn nhỏ song bước đầu đã hình thành các khu rừng tập trung
như khu rừng trồng tre lấy măng ở Sốp Cộp, Mai Sơn.
13
1.4. Công nghiệp xây dựng:
Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt mức tăng trưởng cao,
trong đó công nghiệp khai thác có sự tăng trưởng mạnh mẽ, đặc biệt là khai thác
đá và các mỏ khác có tốc độ tăng giá trị gia tăng cao nhất trong các ngành, của
ngành công nghiệp. Tốc độ tăng giá trị gia tăng ngành khai thác bình quân giai
đoạn 2000 - 2004 là 40,8%/năm, đều gấp hơn 2 lần tốc độ tăng bình quân của cả
ngành công nghiệp. Tuy vậy giá trị sản xuất công nghiệp chế biến vẫn chiếm vị
trí độc tôn, đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của toàn ngành, với tỷ
trọng ổn định ở khoảng 82 - 83% giá trị sản xuất toàn ngành và chiếm 70% giá
trị gia tăng toàn ngành.
Vốn xây dựng cơ bản những năm gần đây tăng nhanh, tổng vốn đầu tư 5
năm (2001 - 2005) khoảng 15.000 tỷ đồng, tăng gấp 5,26 lần thời kỳ (1996 -
2000). Kết cấu hạ tầng quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội từng bước
được hoàn thiện.
Mạng lưới giao thông phát triển nhanh, đặc biệt là hệ thống đường tỉnh,
đường huyện, đường xã tăng mạnh, đảm bảo giao thông đến tất cả các huyện và
hầu hết các xã thông suất trong cả 4 mùa. Toàn tỉnh có 5.240 km đường bộ,
trong đó đường ô tô đạt 0,34 km/km
2
so với năm 1994 (0,17 km/km
2
) tăng gấp 2
lần. Hết năm 2004 chỉ còn 3 xã chưa có đường ô tô đến trung tâm xã, khi đó ở
vào những năm đầu thập niên 90 còn 44 xã chưa có đường ô tô. Vận tải hành
khách và hàng hoá ngày càng thuận lợi đáp ứng được nhu cầu sản xuất và đi lại
của nhân dân, khối lượng hàng hoá vận chuyển bình quân hiện nay trên 2 triệu
tấn gấp trên 3 lần năm 2000 (657.000 tấn). Khối lượng hành khách vận chuyển
trên 2 triệu lượt người/năm tăng gấp gần 2 lần so với năm 2000.
Bưu chính viễn thông ngày càng được hiện đại hoá và phát triển nhanh,
đến nay 100% số xã, phường có điện thoại tại UBND xã, số máy điện thoại thuê
bao cố định đạt xấp xỉ 4 máy/100 dân khi đó năm 1994 mới có 0,3 máy/100 dân.
1.5. Dịch vụ:
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ có tốc độ tăng trưởng
khá và ổn định, năm 2005 đạt 1.950 tỷ đồng, tăng 75,2% so với năm 2000.
Mạng lưới thương mại, dịch vụ ngày càng được mở rộng và phát triển, góp phần
đưa thị trường Sơn La hoà nhập với thị trường chung của cả nước, xoá được tình
trạng ốc đảo trước đây, là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, thị trường thông
suất, hàng hoá đa dạng.
Thu, chi ngân sách có bước phát triển mới, đạt tốc độ tăng trưởng khá.
Thu ngân sách tại địa phương năm 2005 đạt 260 tỷ đồng, tăng 2,4 lần so với
năm 2000. Chi ngân sách đã ưu tiên 40 - 45% chi các xã đặc biệt khó khăn. Hoạt
động ngân hàng, tín dụng đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, xoá đói giảm nghèo. Trong 5 năm 2001 - 2005 vay vốn tín dụng đạt trên
5.000 tỷ đồng.
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét