Thứ Tư, 26 tháng 2, 2014

Công ty Cao su Sao vàng.

Chuyên đề thực tập
nhuận. Sau một thời gian nhất định, sự điều chuyển tự nhiên theo tiếng gọi
của lợi nhuận này, vô hình chung hình thành lên sự phân phối vốn hợp lý giữa
các ngành sản xuất, dẫn đến kết quả cuối cùng là các chủ doanh nghiệp đầu tư
ở các ngành khác nhau với số vốn bằng nhau chỉ thu được lợi nhuận như
nhau.
Cạnh tranh trong nội bộ ngàn: là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
cùng sản xuất và tiêu thụ một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Cạnh tranh
trong nội bộ ngành dẫn đến sự hình thành giá cả thị trường đồng nhất đối với
hàng hoá dịch vụ cùng loại trên cơ sở giá trị xã hội của hàng hoá dịch vụ đó.
Trong cuộc cạnh tranh này, các doanh nghiệp thôn tính lẫn nhau. Những
doanh nghiệp chiến thắng sẽ mở rộng phạm vi hoạt động của mình trên thị
trường, những doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu hẹp kinh doanh, thậm chí
bị phá sản.
Khi nền sản xuất hàng hoá càng phát triển, hàng hoá bán ra càng nhiều,
số lượng người cung ứng càng đông thì cạnh tranh càng gay gắt. Do đó, để
thắng trong cuộc chiến giành lợi nhuận tối đa, các doanh nghiệp không ngừng
thu thập thông tin về các đối thủ, đem so sánh với bản thân doanh nghiệp, nhờ
đó phát hiện được những lĩnh vực mà mình có ưu thế hay bất lợi trong cạnh
tranh và là cơ sở để xây dựng được một chiến lược cạnh tranh đúng đắn.
1.2 Vai trò của cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
Cạnh tranh là tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Cội nguồn của sự
cạnh tranh là sự tự do trong sản xuất kinh doanh, đa dạng kiểu dáng, nhiều
thành phần kinh tế, nhiều người hoạt động sản xuất kinh doanh. Cạnh tranh
thực chất là một cuộc chạy đua không có đích. Chạy đua về mặt kinh tế phải
luôn luôn ở phía trước để tránh những trận đòn của người chạy phía sau, và
không phải chỉ để thắng một trận tuyến giữa các đối thủ mà là để thắng trên
hai trận tuyến. Đó là cạnh tranh giữa những người mua với người bán và cạnh
tranh giữa những người bán với nhau. Do vậy, cạnh tranh không chỉ có vai trò
Sinh viên: Nguyễn Bá Duy- KTĐT 41C
5
Chuyên đề thực tập
quan trọng đối với các doanh nghiệp tham gia thị trường mà còn có ý nghĩa to
lớn đối với người tiêu dùng và toàn xã hội.
- Đối với các doanh nghiệp, cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh (cải tiến thiết bị công nghệ, sử dụng nguồn tài nguyên một cách
tối ưu…), ảnh hưởng đến uy tín, quyết định vị thế của doanh nghiệp trên
thương trường.
- Đối với người tiêu dùng, cạnh tranh giúp họ thoả mãn nhu cầu về
hàng hoá dịch vụ, chất lượng sản phẩm ngày càng cao cùng mức giá phù hợp
với khả năng của họ.
- Đối với nền kinh tế quốc dân thì cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự
phát triển bình đẳng của mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện để giải phóng
lực lượng sản xuất, nâng cao tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiện đại hoá nền sản
xuất xã hội. Đó cũng là điều kiện để xoá bỏ độc quyền bất hợp lý, xoá bỏ bất
bình đẳng trong kinh doanh, phát huy tính tháo vát và óc sáng tạo của các nhà
quản lý doanh nghiệp, gợi mở nhu cầu thông qua việc tạo ra nhiều sản phẩm
mới, nâng cao chất lượng đời sống xã hội, phát triển nền văn minh nhân loại.
Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận mặt tiêu cực của cạnh tranh,
cạnh tranh không lành mạnh sẽ gây ra những hậu quả tiêu cực. Vì bị cuốn hút
bởi các mục tiêu hạ giá thành, tăng lợi nhuận…, các doanh nghiệp đã không
chịu bỏ ra chi phí cho việc xử lý các chất thải, ô nhiễm môi trường và các vấn
đề xã hội khác. Ngoài ra, cạnh tranh có thể có xu hướng dẫn đến độc quyền
… Để khắc phục được những tiêu cực đó thì vai trò của Nhà nước là hết sức
quan trọng.
1.3 Các công cụ cạnh tranh chủ yếu của doanh nghiệp
Do sự khan hiếm nguồn lực xã hội, khả năng kinh doanh của doanh
nghiệp hạn chế nên các doanh nghiệp không thể có lợi thế hơn các đối thủ về
mọi mặt. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp cần biết tận dụng những lợi thế của mình,
Sinh viên: Nguyễn Bá Duy- KTĐT 41C
6
Chuyên đề thực tập
biến chúng thành các công cụ cạnh tranh thực sự lợi hại để đạt được mục tiêu
kinh tế đã đặt ra. Tuy nhiên, các mặt khác mà doanh nghiệp không có lợi thế
bằng thì cũng không nên bỏ qua.
1.3.1 Sản phẩm và chất lượng sản phẩm.
Sản xuất cái gì? cho ai? Là câu hỏi lớn nhất mà mỗi doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh phải đối mặt trong cơ chế thị trường. Trả lợi được câu hỏi
này có nghĩa là doanh nghiệp đã xây dựng cho mình một chính sách sản
phẩm. Không một doanh nghiệp nào hoạt động trên thị trường mà lại không
có sản phẩm kinh doanh cho dù là hữu hình hay vô hình. Vấn đề đặt ra cho
các doanh nghiệp là phải làm cho sản phẩm của mình thích ứng được với thị
trường một cách nhanh chóng thì mới có thể tiêu thụ hết trên thị trường, mở
rộng thị trường, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
a. Sản phẩm
Có thể xây dựng lợi thế cạnh tranh từ sản phẩm theo hai cách:
Đa dạng hoá sản phẩm: Mức độ đa dạng của sản phẩm thể hiện ở danh
mục sản phẩm của công ty (đó là tập hợp của tất cả những loại sản phẩm và
mặt hàng được đưa ra để bán). Để có thể theo kịp nhu cầu thị trường, bên
cạnh việc duy trì và cải tiến các loại sản phẩm hiện đang là thế mạnh, doanh
nghiệp cũng cần nghiên cứu các sản phẩm mới nhằm phát triển và mở rộng
thị trường tiêu thụ hàng hoá. Đa dạng hoá sản phẩm không chỉ là để đảm bảo
đáp ứng được nhu cầu thị trường, thu nhiều lợi nhuận mà còn là một biện
pháp phân tán sự rủi ro trong kinh doanh khi mà cuộc cạnh tranh ngày càng
trở nên gay gắt, quyết liệt.
Đi đôi với việc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, để đảm bảo đứng
vững trong cuộc cạnh tranh, doanh nghiệp có thể thực hiện chiến lược khác
biệt hoá sản phẩm bằng cách tạo ra sản phẩm dịch vụ mà khách hàng cho là
có những điểm độc đáo và từ đó hấp dẫn khách hàng vì sự độc đáo đó. Ưu
điểm của chiến lược này là doanh nghiệp không bị cạnh tranh từ các đối thủ vì
các khó lòng vượt qua lòng trung thành của khách hàng về nhãn hiệu mà
Sinh viên: Nguyễn Bá Duy- KTĐT 41C
7
Chuyên đề thực tập
doanh nghiệp xây dựng được. (Ví dụ, xe ôtô: có tính sang trọng là Mercedes-
Ben, tính kinh tế là Toyota…). Tuy nhiên, doanh nghiệp rất khó giữ vững thị
phần của mình vì khó có thể duy trì sự khác biệt trong thời gian dài do bị đối
thủ bắt chước rất nhanh và gặp khó khăn trong duy trì giá cao.
Như vậy, sản phẩm và xác định cơ cấu sản phẩm tối ưu là một trong
những yếu tố quyết định sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
b. Chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm được hình thành từ khâu thiết kế tới tổ chức sản
xuất và ngay cả sau khi tiêu thụ hàng hoá và chịu tác động của nhiều yếu tố:
công nghệ dây chuyền sản xuất, nguyên vật liệu, trình độ tay nghề lao động,
trình độ quản lý… Chất lượng sản phẩm có thể được hiểu là mức độ đáp ứng
các tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật hoặc la khả năng thoả mãn nhu cầu của người
tiêu dùng. Nâng cao chất lượng thì phải giải quyết được cả hai vấn đề trên.
Xuất phát từ quan điểm thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng, khi đời
sống của con người ngày càng cao thì việc cải thiện chất lượng sản phẩm trở
thành vấn đề cấp bách đối với mỗi doanh nghiệp. Làm ngược lại, doanh
nghiệp đã tự từ chối khách hàng, đẩy lùi hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt
khác, cải tiến sản phẩm còn giúp doanh nghiệp hội nhập tốt hơn với xu hướng
toàn cầu hoá nền kinh tế, vươn tới những thị trường xa hơn. Hiệp định thương
mại Việt – Mỹ được ký kết tháng 7 năm 2000 đã mở ra những cơ hội lớn cho
các doanh nghiệp Việt nam. Song để xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ, các sản
phẩm của ta phải tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn về công nghệ, hàm
lượng dinh dưỡng, an toàn vệ sinh, cũng như về bao gói, bảo quản…
Hiện nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, một quan niệm mới về
chất lượng đã xuất hiện: chất lượng sản phẩm không chỉ là tốt, bền, đẹp mà nó
còn do khách hàng quyết định. Quản lý chất lượng sản phẩm là yếu tố chủ
quan còn sự đánh gía của khách hàng mang tính khách quan. ở đây, nhân tố
khách quan đã tác động, chi phối yếu tố chủ quan. Quan niệm này xuất phát
Sinh viên: Nguyễn Bá Duy- KTĐT 41C
8
Chuyên đề thực tập
từ thực tế là mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên quyết liệt
hơn.
Chất lượng sản phẩm thể hiện tính quyết định sức cạnh tranh của doanh
nghiệp ở chỗ:
- Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ làm tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm,
tăng khối lượng hàng hoá bán ra, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm.
- Sản phẩm chất lượng cao sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp, kích
thích khách hàng mua hàng và mở rộng thị trường.
- Chất lượng sản phẩm cao làm tăng khả năng sinh lời, cải thiện tình
hình tài chính của doanh nghiệp.
1.3.2 Giá bán sản phẩm
Giá cả là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định thị phần
của doanh nghiệp và khả năng sinh lời của nó. Đồng thời, giá cả còn là công
cụ linh hoạt nhất, mềm dẻo nhất trong cạnh tranh.
Giá cả sản phẩm trên thị trường được hình thành thông qua thoả thuận
giữa người bán và người mua. Nó đóng vai trò quan trọng trong quyết định
mua hay không mua của khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường, có sự cạnh
tranh của các doanh nghiệp, “khách hàng là thượng đế” họ có quyền lựa chọn
những gì mà họ cho là tốt nhất, và cùng một loại sản phẩm với chất lượng
tương đương nhau, chắc chắn họ sẽ lựa chọn mức giá bán thấp hơn, khi đó
sản lượng tiêu thụ của doanh nghiệp sẽ tăng lên.
Mặc dù vậy, khi thu nhập của đại bộ phận dân cư đều tăng, khoa học kỹ
thuật phát triển thì việc định gía thấp chưa hẳn là giải pháp hữu hiệu, đôi khi
còn bị đánh đồng với việc suy giảm chất lượng. Vì vậy, định giá thấp, định
giá ngang thị trường hay định giá cao, làm sao sử dụng giá cả như một vũ khí
cạnh tranh lợi hại là tuỳ thuộc vào từng loại sản phẩm, từng giai đoạn trong
chu kỳ sản phẩm hay tuỳ thuộc vào đặc đỉêm của từng vùng thị trường.
1.3.3 Nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm
Sinh viên: Nguyễn Bá Duy- KTĐT 41C
9
Chuyên đề thực tập
Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường bao gồm cả chức năng sản
xuất và tiêu thụ. Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất
kinh doanh, đây cũng là giai đoạn thực hiện bù đắp chi phí và thu lợi nhuận.
Nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm thể hiện ở hai mặt:
Trước hết là phải lựa chọn các kênh phân phối để sản phẩm sản xuất ra
tiêu thụ nhanh chóng, hợp lý và đạt hiệu quả cao. Tiêu thụ nhanh với số lượng
nhiều sẽ tăng nhanh vòng quay của vốn, tăng lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất
kinh doanh. Xây dựng một hệ thống mạng lưới tiêu thụ sản phẩm đòi hỏi tính
toán nhiều yếu tố, phải mất nhiều năm và không dễ gì thay đổi được nó. Bù
lại, doanh nghiệp có một nền móng vững chắc để phát triển thị trường, bảo vệ
thị phần của doanh nghiệp có được.
Bên cạnh việc tổ chức mạng lưới bán hàng, doanh nghiệp cũng cần đẩy
mạnh các hoạt động hỗ trợ bán hàng như quảng cáo, khuyến mại, một số
chính sách phục vụ khách hàng như chính sách thanh toán, các dịch vụ trước
và sau bán hàng. Đây là một hình thức cạnh tranh phi giá, gây sự chú ý và thu
hút khách hàng.
Công tác tổ chức tiêu thụ tốt cũng là một trong những yếu tố làm tăng
uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Các hoạt động giao tiếp khuyếch
trương như quảng cáo, tham gia hội chợ, tổ chức hội nghị khách hàng… là
những hình thức tốt nhất để giới thiệu về các sản phẩm và doanh nghiệp của
mình từ đó giúp cho doanh nghiệp tìm ra được nhiều bạn hàng mới, mở rộng
thị trường nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
2. Nâng cao khả năng cạnh tranh là vấn đề tất yếu của doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường và tiến trình hội nhập
2.1 Quan niệm về khả năng cạnh tranh
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về khả năng cạnh tranh của
một doanh nghiệp:
Sinh viên: Nguyễn Bá Duy- KTĐT 41C
10
Chuyên đề thực tập
- Theo Fafchams: khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp chính là
khả năng của doanh nghiệp đó có thể sản xuất ra sản phẩm với chi phí biến
đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường. Theo cách hiểu này doanh
nghiệp nào sản xuất ra các sản phẩm tương tự như của các doanh nghiệp khác
nhưng với chi phí thấp hơn thì được coi là có khả năng cạnh tranh.
- Randall lại cho rằng: khả năng cạnh tranh là khả năng giành được và
duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định.
- Dunning: khả năng cạnh tranh là khả năng cung ứng sản phẩm của
chính doanh nghiệp trên các thị trường khác nhau mà không phân biệt nơi bố
trí sản xuất của doanh nghiệp đó.
- Một quan niệm khác cho rằng: khả năng cạnh tranh là trình độ công
nghệ sản xuất sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trường đồng thời duy trì
được thu nhập của mình.
Có thể thấy rằng các quan niệm đứng trên các góc độ khác nhau nhưng
chung quy lại đều nói tới việc chiếm lĩnh thị trường và lợi nhuận.
2.2 Sự cần thiết khách quan của việc nâng cao khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp
Mỗi doanh nghiệp bắt đầu vào khởi sự kinh doanh phải có những
nguồn lực nhất định. Để duy trì và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh
buộc các doanh nghiệp phải phát huy triệt để mọi tiềm lực, mọi thế mạnh
nhằm tạo lợi thế bằng hoặc hơn các doanh nghiệp khác. Có như vậy mới đảm
bảo cho doanh nghiệp vững vàng trong cạnh tranh. Để thực hiện được mục
tiêu này buộc các doanh nghiệp phải tăng cường khả năng cạnh tranh của
mình.
Thực chất tăng khả năng cạnh tranh là tạo ra ngày một nhiều hơn các
ưu thế về tất cả các mặt: giá cả, giá trị sử dụng của sản phẩm, uy tín… Cụ thể
là doanh nghiệp phải áp dụng tổng hợp các biện pháp khác nhau như cắt giảm
chi phí sản xuất để hạ giá thành sản phẩm, hạ giá bán, áp dụng công nghệ tiến
Sinh viên: Nguyễn Bá Duy- KTĐT 41C
11
Chuyên đề thực tập
tiến, hiện đại, các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao trình độ
đội ngũ lao động… Hay nói cách khác tăng cường khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp là thay đổi mối tương quan về thế lực của doanh nghiệp trên thị
trường về mọi mặt của quá trình sản xuất.
Trong cơ chế thị trường, tăng sức cạnh tranh là một tất yếu khách quan.
Song song với tốc độ phát triên mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, đòi hỏi của
khách hàng ngày càng khe khắt, họ luôn có xu hướng tiêu dùng những sản
phẩm chất lượng cao với giá cả hợp lý. Để đáp ứng nhu cầu đó doanh nghiệp
luôn tìm mọi cách để cải tiến sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ, đổi mới
công nghệ… hay phát huy mọi lợi thế của mình so với các đối thủ cạnh tranh
trong việc thoả mãn cao nhất đòi hỏi của thị trường.
Mặt khác, xu hướng tự do mở cửa nền kinh tế diễn ra ngày một nhanh,
tiến trình hội nhập đang tới gần thì nâng cao năng lực cạnh tranh là vấn đề
sống còn. Khi hàng rào thuế quan dần xoá bỏ và mở rộng hợp tác kinh tế, sẽ
là khó khăn hơn đối với mỗi doanh nghiệp khi giành giật thị trường và khách
hàng từ tay các công ty xuyên quốc gia hùng mạnh dày kinh nghiệm, các
doanh nghiệp bản địa nhạy bén, năng động cùng sự gia nhập ồ ạt của hàng
ngàn doanh nghiệp mới.
Đối với Việt nam, khi chuyển từ cơ chế tập trung sang cơ chế thị
trường, các doanh nghiệp Nhà nước không còn tính độc quyền và được Nhà
nước bao cấp như trước nữa mà phải tự quyết định lấy các vấn đề quan trọng
mang tính sống còn của doanh nghiệp (sản xuất cho ai, sản xuất cái gì, sản
xuất như thế nào, bao nhiêu…). Các doanh nghiệp Nhà nước buộc phải làm
quen với điều này cũng như phải thích nghi với môi trường kinh doanh mới
của cơ chế thị trường, chấp nhận các quy luật của thị trường cũng như là phải
chấp nhận cạnh tranh. Trong nền kinh tế thị trường đa hình thức sở hữu, khi
mà quan điểm, chính sách của Nhà nước về vai trò của các thành phần kinh tế
khác đi, các doanh nghiệp Nhà nước nếu không tự đổi mới sẽ không thể chạy
đua nổi. Bởi các hãng nổi tiếng trên thế giới đầu tư vào Việt nam ngày càng
Sinh viên: Nguyễn Bá Duy- KTĐT 41C
12
Chuyên đề thực tập
nhiều và có ưu thế hơn hẳn về tiềm lực tài chính cũng như là trình độ kỹ
thuật, kinh nghiệm quản lý. Bên cạnh đó là khu vực kinh tế tư nhân đầy năng
động và hiệu quả đang vươn lên mạnh mẽ.
2.3 Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp
Được khái quát thông qua mô hình sau:
Sinh viên: Nguyễn Bá Duy- KTĐT 41C
13
Môi trường vĩ mô
Kinh tế, công nghệ, luật pháp, tự nhiên…
Môi trường ngành
Nhân tố bên trong
doanh nghiệp
Khả
năng
cạnh
tranh
Vốn
Kỹ thuật
Uy tín
Nhân sự
Chuyên đề thực tập
2.3.1 Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
a. Môi trường vĩ mô: gồm các nhân tố ngoài sự kiểm soát của doanh
nghiệp, có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới sức cạnh tranh của doanh
nghiệp.
a1) Môi trường kinh tế:
Các nhân tố kinh tế là những nhân tố quan trọng nhất của môi trường
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nền kinh tế phát triển với tốc độ cao
sẽ kéo theo sự tăng thu nhập cũng như khả năng thanh toán của người dân do
vậy sức mua của dân cũng tăng lên. Mặt khác, nền kinh tế phát triển mạnh
làm tăng khả năng tích tụ và tập trung tư bản lớn, tăng cơ hội đầu tư phát triển
sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, do sự tăng trưởng của
nền kinh tế sẽ kéo theo sự tăng lên một cách nhanh chóng số lượng các doanh
nghiệp tham gia thị trường, và như vậy mức độ cạnh tranh sẽ lại trở nên gay
gắt. Trái lại, khi nền kinh tế đang trong giai đoạn suy thoái, tỷ lệ lạm phát
tăng làm cho giá cả sẽ tăng, sức mua của người dân bị giảm sút, các doanh
nghiệp phải tìm moị cách để giữ khách hàng, do đó sự cạnh tranh trên thị
trường cũng sẽ khốc liệt hơn.
Lãi suất ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm. Với mức lãi suất đi vay cao,
chi phí sản xuất của doanh nghiệp cũng sẽ tăng lên do phải trả lãi tiền vay lớn,
do vậy sức cạnh tranh của doanh nghiệp cũng sẽ bị giảm đi đặc biệt là đối với
các đối thủ có tiềm lực mạnh về tài chính.
Các nhân tố lạm phát tỷ giá hối đoái, các quan hệ hợp tác kinh tế quốc
tế… cũng ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh của
từng doanh nghiệp cũng như là mức độ cạnh tranh trên thị trường.
a2) Môi trường khoa học công nghệ:
Tiến bộ khoa học công nghệ tạo điều kiện cho doanh nghiệp áp dụng
các thiết bị hiện đại để sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, thu thập xử lý
Sinh viên: Nguyễn Bá Duy- KTĐT 41C
14

Xem chi tiết: Công ty Cao su Sao vàng.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét