Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Quỳnh Phương – K35 D5
đơn vị sản xuất và kinh doanh phải đua nhau tối ưu hoá đầu vào, cải tiến kĩ
thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động
nhằm hạ giá thành sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ xuống nhưng không vượt ra
khỏi khuôn khổ của pháp luật. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh là một
yêu cầu tất yếu, doanh nghiệp nếu không thích ứng được với quy luật cạnh tranh
thì sẽ bị loại bỏ và dẫn đến phá sản.
Tuy nhiên bên cạnh những đặc điểm trên có thể coi là những ưu điểm
của nền kinh tế thị trường thì vẫn còn tồn tại một số nhược điểm đó là tình trạng
phân hoá giầu nghèo, lạm phát, khủng hoảng nền kinh tế, thất nghiệp ngày
càng tăng, do chạy theo lợi nhuận nên việc khai thác và sử dụng tài nguyên một
cách vô tội vạ, phá huỷ môi trường. Cạnh tranh là động lực của nền kinh tế song
bản thân cạnh tranh lại cũng chứa đựng những nhân tố tạo ra sự đối lập với nó,
đó là độc quyền, mà độc quyền chính là cơ sở để làm nảy sinh những quan hệ
cạnh tranh không lành mạnh, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và xã hội. Chính
vì những nhược điểm này nên rất cần có sự can thiệp, điều tiết vĩ mô của Nhà
nước đối với nền kinh tế.
Hiện nay Nhà nước ta đang xây dựng một nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là một yêu cầu khách quan nhằm phát triển lực
lượng sản xuất qua đó phù hợp với xu thế của thời đại và phù hợp với nguyện
vọng của nhân dân ta.
2. Đặc điểm kế toán nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm trong các doanh
nghiệp sản xuất.
Tiêu thụ thành phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh
doanh trong doanh nghiệp sản xuất, là giai đoạn có tính quyết định tới sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp . Thành phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra bán
được nhiều sẽ bù đắp được những chi phí doanh nghiệp bỏ ra, giúp doanh
nghiệp thu hồi lại vốn để tiếp tục tái sản xuất sản phẩm đem lại hiệu quả sản
xuất kinh doanh và lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trên cơ sở đó doanh nghiệp
mới có điều kiện để nâng cao và phát triển sản xuất cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu. Ngược lại, nếu sản phẩm sản xuất ra không được thị trường chấp nhận ,
5
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Quỳnh Phương – K35 D5
không bán được sẽ gây ứ đọng vốn, dẫn đến sản xuất bị ngưng trệ, quay vòng
vốn chậm, không có vốn để tiếp tục quá trình tái sản xuất Nếu tình trạng đó
không được khắc phục, lâu ngày sẽ dẫn doanh nghiệp đến bờ vực của sự phá
sản. Do vậy, với bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn đứng vững trên thị trường
phải luôn xác định được khả năng của doanh nghiệp mình, doanh nghiệp sẽ kinh
doanh mặt hàng nào, đối tượng phục vụ là ai, kinh doanh theo hình thức nào
tức là doanh nghiệp phải hoạch định được chiến lược kinh doanh của mình từ
khâu sản xuất cho đến khâu tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả kinh doanh
có như vậy mới đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp mình.
2.1. Các phương thức tiêu thụ :
2.1.1. Phương thức bán buôn:
Bán buôn là việc bán hàng cho các doanh nghiệp sản xuất hoặc các
doanh nghiệp thương mại. Kết thúc quá trình này, hàng hoá thành phẩm vẫn
nằm trong lĩnh vực lưu thông. Đặc điểm của phương thức này là số lượng bán
một lần lớn nên doanh nghiệp thường lập chứng từ cho từng lần bán và kế toán
tiến hành ghi sổ sau mỗi nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Phương thức này được tiến hành theo 2 hình thức sau:
- Hình thức giao hàng trực tiếp : Theo hình thức này, bên mua cử đại
diện đến doanh nghiệp sản xuất để nhận hàng, doanh nghiệp sản xuất giao trực
tiếp cho đại diện bên mua. Sau khi đại diện bên mua nhận đủ hàng, đã thanh
toán tiền hoặc chấp nhận nợ, hàng bán được xác định là tiêu thụ.
- Hình thức chuyển hàng : Theo hình thức này, căn cứ vào hợp đồng đã
ký kết, doanh nghiệp sản xuất bằng phương tiện vận tải của mình hoặc thuê
ngoài, chuyển hàng đến giao cho bên mua ở một địa điểm đã thoả thuận. Thành
phẩm chuyển bán vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Số thành phẩm này
được xác định là tiêu thụ khi nhận được tiền do bên mua thanh toán hoặc giấy
báo của bên mua đã nhận được hàng và chấp nhận thanh toán. Chi phí vận
chuyển do doanh nghiệp sản xuất chịu hay bên mua chịu là theo sự thoả thuận từ
trước giữa hai bên trong hợp đồng.
2.1.2. Phương thức bán lẻ:
6
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Quỳnh Phương – K35 D5
Bán lẻ là bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng, người bán giao hàng
cho khách và thu tiền của khách hàng. Phương thức bán lẻ diễn ra ở các quầy
hàng nhằm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của dân cư và được tiến hành theo
các hình thức sau:
- Bán hàng thu tiền trực tiếp : Theo hình thức này, nhân viên bán hàng
vừa là người trực tiếp thu tiền, giao hàng cho khách và ghi hàng đã bán vào thẻ
quầy hàng. Cuối ngày hoặc cuối ca nhân viên bán hàng kiểm kê, nộp tiền bán
hàng cho thủ quỹ hoặc nộp thẳng vào ngân hàng, đồng thời kiểm kê hàng hoá,
xác định lượng hàng bán và lập bảng kê bán lẻ hàng hoá dịch vụ.
- Bán hàng thu tiền tập trung : Hình thức này tách rời nghiệp vụ bán
hàng và thu tiền tức là việc thu tiền của người mua và giao hàng cho người mua
tách rời nhau. Mỗi quầy hàng có một nhân viên thu tiền làm nhiệm vụ viết hoá
đơn và thu tiền mua hàng của khách. Khi mua hàng, trước tiên khách hàng đến
bàn viết hóa đơn mua hàng rồi thanh toán tiền hàng, sau đó đem hoá đơn đi nhận
hàng do nhân viên bán hàng giao. Hết ngày nhân viên bán hàng căn cứ vào hoá
đơn bán hàng để xác định lượng hàng đã bán trong ngày và lập báo cáo bán
hàng.
- Bán hàng tự phục vụ (tự chọn): Theo hình thức này, khách hàng tự
chọn lấy hàng hoá, mang đến bàn tính tiền để tính tiền và thanh toán tiền hàng.
Nhân viên thu tiền kiểm hàng, tính tiền, lập hoá đơn bán hàng và thu tiền của
khách hàng. Nhân viên bán hàng có trách nhiệm hướng dẫn khách hàng và bảo
quản hàng hoá ở quầy do mình phụ trách.
- Bán hàng tự động: Là hình thức bán lẻ hàng hoá mà trong đó các doanh
nghiệp sử dụng các máy bán hàng tự động chuyên dùng cho một hoặc một vài
loại hàng hoá nào đó đặt ở các nơi công cộng, sau khi người mua bỏ tiền vào
máy, máy sẽ tự động đẩy hàng ra cho người mua.
2.1.3. Phương thức bán hàng gửi đại lý :
Theo phương thức này doanh nghiệp sản xuất giao hàng cho cơ sở đại lý,
bên nhận đại lý sẽ trực tiếp bán hàng và phải thanh toán tiền hàng cho doanh
nghiệp sản xuất, được hưởng hoa hồng đại lý bán. Số thành phẩm gửi đại lý vẫn
7
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Quỳnh Phương – K35 D5
thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp sản xuất, số thành phẩm này được xác
định là tiêu thụ khi doanh nghiệp nhận được tiền do bên nhận đại lý thanh toán
hoặc chấp nhận thanh toán hoặc thông báo về số hàng đã bán được, doanh
nghiệp khi đó mới mất quyền sở hữu về số hàng này.
2.1.4. Phương thức bán hàng trả góp :
Theo phương thức này, người mua được trả tiền mua hàng thành nhiều
lần. Số lần trả và số tiền trả trong từng lần là tuỳ theo sự thoả thuận giữa hai bên
mua bán. Ngoài số tiền thu theo giá bán thông thường, doanh nghiệp còn thu
thêm của người mua một khoản lãi do trả chậm.
2.2. Phạm vi hàng bán và thời điểm ghi nhận doanh thu bán
hàng:
2.2.1. Phạm vi hàng bán:
Trong doanh nghiệp sản xuất hàng hoá, thành phẩm được coi là bán phải
đảm bảo các điều kiện sau:
- Phải thông qua mua bán và thanh toán bằng tiền theo một hình thức
thanh toán nhất định.
- Hàng hoá, thành phẩm bán ra thuộc diện sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Bên bán mất quyền sở hữu về hàng hoá, thành phẩm và đã thu được
tiền hoặc có quyền đòi tiền của người mua.
Các trường hợp xuất hàng đặc biệt được coi là bán:
- Hàng hoá xuất để thanh toán tiền lương, tiền thưởng cho công nhân
viên, thanh toán thu nhập cho các bên tham gia liên doanh.
- Trường hợp hàng hoá xuất đổi để lấy hàng hoá khác (còn gọi là bán
hàng thanh toán bằng hàng hay còn gọi là hàng hoá đối lưu).
- Hàng hoá xuất làm quà biếu, tặng thưởng được trang trải bằng các quỹ
khen thưởng, quỹ phúc lợi.
- Hàng hoá xuất dùng trong nội bộ doanh nghiệp, sử dụng phục vụ cho
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp kể cả trường hợp xuất hàng quảng cáo
tiếp thị.
8
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Quỳnh Phương – K35 D5
- Hàng hoá hao hụt tổn thất trong khâu bán theo hợp đồng bên mua chịu.
2.2.2. Thời điểm ghi nhận doanh thu bán hàng:
Theo chuẩn mực số 14 về doanh thu và thu nhập khác ban hành và công
bố theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001 của Bộ trưởng Bộ
tài chính thì doanh thu bán hàng được ghi nhận khi đồng thời thoả mãn 5 điều
kiện sau:
a. Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với
quyền sở hữu sản phẩm hoặc hàng hoá cho người mua.
Doanh nghiệp phải xác định thời điểm chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi
ích gắn liền với quyền sở hữu cho người mua trong từng trường hợp cụ thể :
- Theo hình thức giao hàng trực tiếp thì thời điểm chuyển giao rủi ro và
lợi ích gắn liền với quyền sở hữu cho người mua là sau khi hàng hoá, thành
phẩm được giao cho bên mua, bên mua ký nhận đủ hàng, đã trả tiền hoặc chấp
nhận nợ.
- Theo hình thức chuyển hàng thì thời điểm chuyển giao này là khi bên
bán nhận được tiền do bên mua thanh toán hoặc giấy báo của bên mua đã nhận
được hàng và chấp nhận thanh toán.
- Theo hình thức gửi đại lý bán thì thời điểm chuyển giao rủi ro và lợi
ích gắn liền với quyền sở hữu hàng hóa là khi doanh nghiệp nhận được tiền do
bên nhận đại lý thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán.
- Theo hình thức bán lẻ, bán trả góp thì thời điểm chuyển giao này là lúc
giao hàng cho người mua, người mua thanh toán toàn bộ tiền hoặc thanh toán
một phần.
Trong hầu hết các trường hợp, thời điểm chuyển giao phần lớn rủi ro
trùng với thời điểm chuyển giao lợi ích gắn liền với quyền sở hữu hợp pháp
hoặc quyền kiểm soát hàng hoá cho người mua.
b. Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lí hàng hoá như người
sở hữu hàng hoá hoặc quyền kiểm soát hàng hoá. Trường hợp doanh nghiệp vẫn
còn chịu phần lớn rủi ro gắn liền với quyền sở hữu hàng hóa thì giao dịch không
được coi là hoạt động bán hàng và doanh thu không được ghi nhận. Nếu doanh
9
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Quỳnh Phương – K35 D5
nghiệp chỉ còn chịu một phần nhỏ rủi ro gắn liền với quyền sở hữu hàng hoá thì
việc bán hàng được xác định và doanh thu được ghi nhận.
c. Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn tức là đã xác định được
tương đối chắc chắn về thời điểm chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền
với quyền sở hữu sản phẩm hoặc hàng hoá cho người mua.
d. Doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao
dịch bán hàng. Trường hợp lợi ích kinh tế từ giao dịch bán hàng còn phụ thuộc
yếu tố không chắc chắn thì chỉ ghi nhận doanh thu khi yếu tố không chắc chắn
này đã xử lý xong.
e. Xác định được chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng. Doanh thu và
chi phí liên quan tới cùng một giao dịch phải được ghi nhận đồng thời theo
nguyên tắc phù hợp. Các chi phí, bao gồm cả chi phí phát sinh sau ngày giao
hàng thường được xác định chắc chắn khi các điều kiện ghi nhận doanh thu
được thoả mãn.
2.3. Các phương thức thanh toán:
Thực hiện nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá, thành phẩm, vốn của doanh
nghiệp chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ. Doanh nghiệp mất
quyền sở hữu về hàng hoá thành phẩm nhưng lại được quyền sở hữu một lượng
tiền tệ nhất định do bên mua chi trả. Việc thanh toán tiền hàng có thể tiến hành
ngay hoặc trả chậm hoặc trả dần do hai bên tự thoả thuận. Phương thức thanh
toán thể hiện sự tín nhiệm lẫn nhau giữa hai bên mua và bán, đồng thời nó cũng
gắn liền với sự vận động giữa hàng hoá với số tiền vốn , đảm bảo cho hai bên
cùng có lợi.
Hiện nay, doanh nghiệp thường áp dụng 2 phương thức thanh toán :
thanh toán trực tiếp và thanh toán không trực tiếp.
2.3.1. Phương thức thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt :
Đây là hình thức thanh toán mà người mua sau khi nhận được vật tư,
hàng hoá do bên bán cung cấp thì tiến hành thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt
cho bên bán. Thông thường hình thức thanh toán bằng tiền mặt thường được áp
dụng đối với hàng hoá tiêu thụ trong nước, các bên có khoảng cách địa lý gần
10
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Quỳnh Phương – K35 D5
nhau. Đối với các mặt hàng bán với số lượng ít, bán lẻ, các khoản chi về vận
chuyển thường được thanh toán ngay bằng tiền mặt .
2.3.2. Phương thức thanh toán qua ngân hàng :
Trong điều kiện nền kinh tế phát triển như hiện nay thì ngân hàng giữ
vai trò quan trọng trong quan hệ thanh toán tiền hàng giữa người mua và người
bán, các phương thức thanh toán qua ngân hàng cũng rất phong phú đa dạng,
việc lựa chọn phương thức nào là phụ thuộc và điều kiện của mỗi bên và sự thoả
thuận giữa bên mua và bên bán. Các phương thức thanh toán qua ngân hàng
gồm :
a. Thanh toán bằng séc:
Séc là một mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do chủ tài khoản ký phát ra
lệnh cho ngân hàng trích tiền trên tài khoản tiền gửi của mình để trả cho người
có tên trên séc, hoặc theo lệnh của người đó trả cho một người khác một số tiền
nhất định bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản.
Thanh toán bằng séc là một phương thức thanh toán được áp dụng phổ
biến ở nhiều nước trên thế giới, ở Việt Nam phương thức này đã được áp dụng
từ những năm 1960 và ngay càng trở nên phổ biến.
b. Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi:
Ủy nhiệm chi là một tờ lệnh chi tiền do chủ tài khoản phát hành theo
mẫu in sẵn của ngân hàng trích từ tài khoản tiền gửi của mình để trả cho một
người khác hoặc đáp ứng cho các nhu khác trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp .
Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi được áp dụng khi quan hệ mua bán diễn
ra thường xuyên, đồng thời đơn vị mua là một khách hàng truyền thống của
doanh nghiệp, mặt khác doanh nghiệp có thể khống chế đơn vị mua thông qua
việc cung cấp hàng hoá. Theo hình thức này, độ an toàn về việc thu tiền hàng
của doanh nghiệp là không cao, rủi ro trong thanh toán cao.
c. Thanh toán bằng ủy nhiệm thu :
Ủy nhiệm thu là một tờ lệnh thu tiền do người bán ký phát ủy thác cho
ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền về giá trị hàng hoá đã giao. Hình thức
11
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Quỳnh Phương – K35 D5
này được áp dụng đối với những đơn vị có mức độ tín nhiệm tương đối cao
trong quan hệ mua bán. Theo hình thức này, doanh nghiệp sau khi hoàn thành
nghĩa vụ giao hàng cho người mua thì sẽ lập uỷ nhiệm thu cùng các chứng từ,
hoá đơn liên quan chứng minh hàng hoá đã được chuyển giao rồi gửi tới ngân
hàng phục vụ mình nhờ thu hộ số tiền trên.
d. Thanh toán bằng thư tín dụng (L/C ):
Thư tín dụng là một bảng cam kết của ngân hàng bên mua sẽ trả tiền cho
đơn vị bán nếu đơn vị bán xuất trình được một bộ chứng từ thanh toán phù hợp
với nội dung và yêu cầu của thư tín dụng.Thanh toán bằng thư tín dụng được áp
dụng đối với trường hợp hai bên mua bán không tín nhiệm lẫn nhau, đơn vị bán
đòi hỏi đơn vị mua phải có đủ tiền để thanh toán ngay, nó còn được áp dụng với
các chủ thể vi phạm kỷ luật thanh toán trong thời gian thực thi quyết định xử
phạt của ngân hàng. Đây là hình thức thanh toán được áp dụng phổ biến hiện
nay, ở hình thức này ngân hàng đóng vài trò là người đứng ra cam kết thanh
toán, do đó doanh nghiệp tránh được rủi ro trong thanh toán, quyền lợi của
doanh nghiệp luôn được bảo đảm khi doanh nghiệp thực hiện đúng hợp đồng,
tiền hàng thu về được an toàn hơn.
e. Thanh toán bằng thẻ thanh toán :
Thẻ thanh toán là một phương tiện do ngân hàng phát hành cho các đơn
vị, tổ chức kinh tế, các cá nhân để thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ hoặc rút tiền
mặt tại các ngân hàng, đại lý hay các quầy trả tiền mặt tự động của ngân hàng,
Thẻ thanh toán bao gồm ba loại : Thẻ ký quỹ, thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng.
f. Phương thức thanh toán bù trừ :
Phương thức này được áp dụng giữa các đơn vị có quan hệ giao dịch tín
nhiệm lẫn nhau, theo định kỳ các bên tiến hành cung cấp hàng hoá dịch vụ cho
nhau và thông báo cho ngân hàng về số dư nợ trên tài khoản của mình để ngân
hàng tiến hành bù trừ.
Phương thức thanh toán qua ngân hàng có nhiều ưu điểm hơn so với
phương thức thanh toán trực tiếp đó là đảm bảo sự an toàn về vốn cho doanh
12
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Quỳnh Phương – K35 D5
nghiệp, việc thanh toán được tiến hành nhanh, chống tham nhũng lãng phí,
chống lạm phát, ổn định giá cả và góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển
2.4. Giá thành phẩm trong khâu bán.
2.4.1. Giá bán thành phẩm :
• Nguyên tắc xác định:
Giá cả hàng hoá luôn luôn là vấn đề quan trọng được quan tâm hàng đầu
đối với cả người mua và người bán, vì vậy cần phải xác định giá bán sao cho
phù hợp với cả hai bên mua bán. Khi hàng hoá được cung cấp đầy đủ, dồi dào từ
nhiều nguồn khác nhau, mẫu mã bao bì đa dạng phong phú thì giá cả là yếu tố
cạnh tranh lớn nhất trong việc chiếm lĩnh thị trường. Do vậy, việc xác lập giá
bán phải đạt được các mục tiêu sau:
- Giá bán phải kích thích khối lượng hàng hoá bán ra và được tiêu thụ
một cách tối đa.
- Xác định giá bán phải đảm bảo cho doanh nghiệp thu được lợi nhuận.
Giá bán cao hay thấp tuỳ thuộc vào khối lượng bán ra và phương thức
bán nhưng nó phải được xác định dựa trên nguyên tắc giá thị trường. Trên thị
trường, giá cả thị trường được hình thành do người mua và người bán thoả thuận
với nhau, việc xác định giá bán thành phẩm phải dựa trên nguyên tắc giá thị
trường tức là phải phản ánh được giá trị xã hội của hàng hoá, thành phẩm phù
hợp với sức mua của đồng tiền và quan hệ cung cầu. Mặt khác nó phải đảm bảo
cho người sản xuất kinh doanh bù đắp được các chi phí và có lãi cần thiết. Giá
bán hàng hoá, thành phẩm chính là giá thoả thuận giữa người mua và người bán
ghi trên hoá đơn và trong các hợp đồng mua bán.
• Phương pháp xác định: Giá bán thực tế của thành phẩm là cơ sở để ghi
nhận doanh thu và được xác định theo công thức sau:
Giá bán
thành phẩm
=
Giá thành sản xuất thực
tế của thành phẩm
+
Thặng số
thương mại
Thặng số thương mại là một khoản lợi nhuận nhất định dùng để bù đắp
chi phí, thuế và hình thành lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nó được tính theo tỉ lệ
phần trăm trên giá thành sản xuất thực tế của thành phẩm đã tiêu thụ :
13
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Quỳnh Phương – K35 D5
Thặng số thương mại = Giá thành sản xuất thực tế x % thặng số
Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp được quyền xác định giá bán của
thành phẩm, hàng hoá. Nhà nước chỉ khống chế giá đối với một số mặt hàng
chiến lược như : điện, nước, xăng dầu nhưng cũng chỉ trong một khung giá nhất
định, do đó tỉ lệ % thặng số trong cơ chế thị trường luôn biến động linh hoạt phù
hợp với thị trường.
2.4.2. Giá vốn hàng bán :
Để đưa ra được giá bán hàng hoá, thành phẩm hợp lý, doanh nghiệp phải
xác định được giá vốn hàng bán để làm căn cứ ghi sổ, cuối kỳ xác định hiệu quả
của hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong thực tế, do giá cả của hàng hoá và
nguyên vật liệu mua vào luôn biến động do đó đơn giá của hàng hoá mỗi lần
nhập kho là khác nhau điều này đòi hỏi kế toán phải có một phương pháp nhất
định để xác định trị giá hàng hoá xuất kho trên cơ sở các đơn giá nhập kho
tương ứng.
Hiện nay, có nhiều cách tính trị giá vốn hàng bán khác nhau, tuỳ thuộc
vào đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp mà lựa chọn
phương pháp nào cho phù hợp :
a. Phương pháp bình quân gia quyền :
Theo phương pháp này trước hết phải tính giá mua bình quân của hàng
hoá, thành phẩm theo công thức :
Trị giá thực tế bình
quân của 1 đơn vị thành
phẩm, hàng hoá
=
Trị giá thựctế của thành
phẩm, hàng hoá tồn kho
đầu kỳ
+
Trị giá thực tế của thành
phẩm, hàng hoá nhập kho
trong kỳ
Số lượng thành phẩm
hàng hoá tồn kho đầu kỳ
+
Số lượng thành phẩm,
hàng hoá nhập kho trong kỳ
Sau đó tính trị giá vốn của từng loại thành phẩm, hàng hoá xuất bán
trong kỳ theo công thức :
Trị giá vốn của thành
phẩm, hàng hoá xuất =
Tổng số lượng thành
phẩm, hàng hoá xuất x
Giá bình quân 1
đơn vị thành
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét