6. Những đóng góp của luận văn
Trước tiên với những vấn đề được đưa ra và giải quyết ở luận văn sẽ đưa
đến cho người đọc một cách nhìn tổng thể về giá trị văn chương trong trước tác của
Phan Huy Chú
Giúp người đọc có thêm những tư liệu liệu tổng hợp khi nghiên cứu hay tìm
hiểu về những vấn đề xoay quanh bộ phận văn chương trong trước tác của Phan
Huy Chú.
Hơn nữa luận văn còn cho chúng ta thấy những đóng góp không chỉ về mặt
tư liệu văn học mà cả về mặt phương pháp nghiên cứu khoa học với một tư duy
mới của nhà trước thuật cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX .
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương:
Chương I. Trước tác của Phan Huy Chú trong đời sống văn hóa cuối thế kỷ
XVIII nửa đầu thế kỷ XIX.
Chương II. Bộ phận sưu tầm biên khảo văn học trong lịch triều hiến chương
loại chí
Chương III. Sáng tác thơ văn của Phan Huy Chú
5
CHƯƠNG I. TRƯỚC TÁC CỦA PHAN HUY CHÚ TRONG ĐỜI
SỐNG VĂN HÓA NỬA CUỐI THẾ KỶ XVIII NỬA ĐẦU THẾ KỶ
XIX.
I.1.1 Phan Huy Chú và ảnh hưởng của truyền thống gia đình đến sự
nghiệp trước tác của ông.
1.1.Vài nét về tác giả.
Khi nói đến giai đoạn cuối thế kỷ 18 đầu 19 đến dòng họ Phan chúng ta
không thể không nói đến một người đã làm dạng danh dòng họ của mình đồng thời
cũng làm dạng danh cho nền văn hóa dân tộc, đó là Phan Huy Chú. Ông sinh vào
mùa đông năm Nhâm Dần 1782, lúc đầu tên là Hạo sau đổi thành Chú tự là Lâm
Khanh hiệu Mai Phong. Ông có nguồn gốc ở Nghệ An, sau di cư đến Sài Sơn, còn
gọi là làng thày thuộc phủ Quốc Oai, Hà Tây nay thuộc Hà Nội.
Phan Huy Chú sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống khoa cử,
cho nên ông có đủ điều kiện để học tập và nhờ vào sự giáo dục rèn luyện nghiêm
túc của gia đình đặc biệt là sớm được tắm mình trong kho tàng sách vở mà gia đình
bao đời lưu giữ được nên ngay từ nhỏ đã nổi tiếng khắp vùng Quốc Oai, Sơn Tây là
người thông minh học giỏi. Cha ông đã có những vần thơ miêu tả nét thanh tú của
ông:
“Mặt đẹp mày thanh khác trẻ thường,
Phúc ấm đúc nên hòn ngọc báu
Giống dòng bồi mãi nếp thư hương”
Là một người tài năng, giỏi dang, nhưng hai lần đi thi ông chỉ đỗ tú tài, hơn
nữa ông là người làng Thầy nên người ta gọi ông là kép Thầy. Ở trong lịch sử triều
đại phong kiến thì thường những người đỗ cao mới được ra làm quan nhưng với
hiện tượng Phan Huy Chú thì khác .Tuy không đỗ cao nhưng thực học thực tài của
ông thì ai ai cũng biết. Đến năm ( 1821) Minh Mạng biết tiếng nên đã cho triều
6
Phan Huy Chú vào kinh giữ chức biên tu ở viện hàn lâm, cũng năm ấy ông đã dâng
bộ sách lịch triều hiến chương loại chí, bộ sách sử có tính chất tổng hợp mà ông đã
dày công nghiên cứu trong suốt mười năm từ năm 27 tuổi cho đến năm 37 tuổi.
Năm 1825 ông được xung vào xứ bộ Trung Quốc làm phó đoàn đi sứ. Năm 1828
thăng phủ thừa phủ thừa thiên, năm sau tức năm 1829 được điều làm hiệp trấn
Quảng Nam sau đó lại bị giáng chức. Năm 1831 ông lại được cử làm phó đoàn
sang sứ Trung quốc lần thứ 2, lần này đi sứ tâm trạng Phan Huy Chú cũng chẳng
lấy gì làm vui, trong bài tựa của tập thơ làm khi đi sứ có ghi : “ Ta lần này đội ơn
được trát lại vâng đi sứ khi nghe lệnh giật mình kinh hãi thật là ngoài ý liệu tính…”.
Khi trở về ông bị cắt chức. Năm 1832 ông lại bị Minh Mệnh bắt đi hiệu lực ở
Giang Lưu Ba thuộc Inđônêxia. Trong đại nam thực lục chính biên có chép: “năm
1832 sai Phan Mâu, Nguyễn Tiến Khoan, Nguyễn Văn Chất dem theo mấy viện
binh bị cắt chức là Hoàng Văn Đản , Phan Huy Chú và Trương Hảo Hợp chia nhau
cưỡi ba chiếc thuyền lớn Phấn Bằng, Thụy Long và An Dương đi công cán ở Giang
lưu ba.” Và sau chuyến đi này trở về ông được khôi phục giữ chức tư vụ bộ công.
Làm được một thời gian ông cảm thấy nơi quan trường có nhiều điều ngang trái,
nhiều đổi thay khiến bản thân mình mệt mỏi chán ngán, nên ông bèn lấy cớ đau
yếu xin về quê dạy học và sau mất tại quê nhà năm (1782 ). Mộ của ông được chôn
ở xã Thanh Mai, huyện Tiên Phong, Sơn Tây, hiện nay là xã Vạn Thắng, huyện Ba
Vì, Hà Nội.
Có lẽ khi nói về tiểu sử và cuộc đời làm quan của con người này cũng thật
đơn giản và ngắn gọn. Hai lần đi thi đỗ tú tài, hai lần đi sứ Trung Quốc và một lần
đi hiệu lực. Vài lần làm quan, rồi bị cắt chức rồi lại làm quan…chỉ vậy thôi cũng đủ
thấy sự long đong của cuộc đời Ông. Song để đi tìm hiểu lý do tại sao khi mà một
con người tài giỏi như Phan Huy Chú mà con đường hoạn lộ của ông lại gập ghềnh
chắc trở, đi thi thì đỗ không cao, khi làm quan thì lúc thăng lúc giáng, nhưng con
đường nghệ thuật của ông thì lại làm dạng danh tên tuổi của ông đến muôn đời
sau ? Nguyên do thì rất nhiều nhưng chúng ta có thể điểm qua một số yếu tố dưới
7
đây, rất có thể đây chỉ là những nhận định trên cơ sở những yếu tố xã hội . Trong
xã hội phong kiến thì thi cử đã trở thành phương thức, cách thức để hay nói đúng
hơn là một tiêu chuẩn cơ bản để xác định tài năng và con đường quan lại của các
nhà nho. Nhưng trên thực tế thì thi cử không phải là phương thức xác định một
cách chuẩn xác nhất và đầy đủ nhất tài năng thực thụ của họ, ở đây chúng ta không
kể đến những trường hợp mua quan bán tước. Trong Kiến văn tiểu lục Lê Quý Đôn
có viết: “ Đặt ra khoa cử tuy có thi từ phú sách luận …tóm lại chỉ là dùng lời nói
xuông ứng đối lại thực ra thì đến khi thi thố ra việc làm vẫn không phải những điều
ấy, vả lại căn cứ vào văn chương mấy bài thi nơi trường ốc… làm gì mà có thể xét
hết nhân tài” [ trang 93 Kiến văn tiểu lục]. Như vậy có nghĩa là văn chương khoa
cử “ không phải là cái có thể phản ánh được trung thực những năng lực học thuật,
năng lực kinh bang tế thế và hoạt động thực tiễn của các nhà nho “. Mà Phan Huy
Chú là một trong những trường như vậy.
Mặt khác như chúng ta đã biết Phan Huy Chú sinh ra trong thời kỳ đầy biến
động của lịch sử dân tộc. Và chính sự biến đổi này đã ảnh hưởng sâu sắc đến gia
đình Phan Huy Chú. Như chúng ta đã biết, ông nội của Phan Huy Chú sau khi làm
quan cho Lê Chiêu Thống đã cáo quan về quê thì cha là Phan Huy Ích và chú là
Phan Huy Sảng lại theo Tây Sơn và phục vụ cho chính quyền Tây Sơn. Trong khi
đó 2 chú là Phan Huy Thự và Phan Huy Tân vẫn giữa thái độ phò Lê Chống Tây
Sơn. Như vậy chúng ta có thể thấy ngay trong một gia đình trí thức nhưng cũng đã
có những tư tưởng khác nhau, những xu hướng khác nhau. Còn Phan Huy Chú lớn
lên trong bối cảnh không mấy thuận lợi đó là lúc triều Tây Sơn suy sụp, triều
Nguyễn lên thay đang tìm mọi cách để trả thù chính quyền cũ và những người từng
tham gia ủng hộ chính quyền ấy, cha ông cùng người bạn thân thiết của mình ( Ngô
Thì Nhậm - bác của Phan Huy Chú )đã bị đánh đòn ở Văn miếu. Giá như không
có sự thay đổi này chắc hẳn Phan Huy Chú sẽ thuận lợi hơn trong con đường tiến
thân của mình. Có lẽ đó chỉ là một trong những lý do mà triều Nguyễn đã không
trọng dụng ông. Ngoài ra chúng ta có thể tìm hiểu thêm một khía cạnh khác nữa
8
cũng có liên quan đến vấn đề này nhưng ở góc độ nào đó, nó thể hiện một tư tưởng
rất mới của ông, đó chính là bản điều trần mà ông đã dâng lên vua Minh Mệnh
nhưng không được chấp nhận. Trong Đại nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ chép
vào năm Minh Mệnh thứ 4 (1823) có ghi: “Lang trung bộ lại là Phan Huy Chú dâng
sớ điều trần bốn việc nói nhiều điều viễn vông bậy bạ, không thiết việc đời. Vua
xem cười bảo rằng : Chú cầu tiến thân mong được hợp ý cũng như bọn Mao Toại tự
tiến vậy.” bèn trả sớ lại.” Bản điều trần đó được Tạ Ngọc Liễn đưa ra trong tác
phẩm Phan Huy Chú và dòng văn Phan Huy gồm :
1. Định lại chế độ quan chức cho rõ ràng
2. Phải thận trọng đối với việc thuế khóa
3. Phải xây dựng phương pháp phép tắc trong giáo dục,
4. Phải chấn chỉnh cục sử học để sử sách biên soạn ra được rõ ràng. (trang 29)
Mặc dù bản điều trần này tác giả của bài viết cũng chưa công bố tài liệu rõ
ràng. Nhưng chúng tôi đưa ra và khai thác nó ở một góc độ sử học nhằm mục đích
làm sáng tỏ thêm tư tưởng mới của ông chứ không phải góc độ chính trị, với những
yếu tố mà chúng tôi cho là hợp lý và phù hợp với quan niệm trong quá trình biên
soạn, trước thuật của nhà khoa học này. Từ đó chúng ta có thể thấy rằng những
điều mà Phan Huy Chú đưa ra hoàn toàn không viễn vông bậy bạ mà ngược lại rất
thực tế song chính quyền nhà Nguyễn có thể vì một lý do cá nhân nào đó hay cũng
có thể vì họ không coi trọng những vấn đề cần thiết này cho việc cai trị của họ, nên
không chấp nhận . Hơn nữa chúng ta cũng xét đến mối liên hệ với những người
Thân của ông. Trên thực tế trong giai đoạn này triều Nguyễn đang truy tội những
người có dính líu đến chính quyền Tây Sơn, họ tìm mọi cách để tiêu diệt và trả thù
tất cả những người có liên quan tới triều đại trước. Trong đó gia đình ông đã có
mấy người từng tham gia ủng hộ. Mặc dù không được triều Nguyễn tiếp nhận
nhưng chúng ta không thể phủ nhận tư tưởng rất mới của ông được thể hiện trong
bản điều trần này. Đặc biệt là điều thứ 4 của bản điều trần “ trấn chỉnh cục sử học
9
để sử sách biên soạn ra được rõ ràng”. Với điều này chúng ta thấy được tư duy,
tầm nhìn xa, mà rất thiết thực của ông đối với việc biên soạn sử sách. Có thể trước
và trong thời kỳ ông sống việc biên soạn sách vở còn nhiều sai sót và nhầm lẫn,
không được rõ ràng cho nên việc chấn chỉnh lại cả người làm sử cho đến tư liệu.
Ông đã nêu lên một thực tế rằng: Duy điển lễ của các triều từ trước chưa có sách
sẳn. Trong quốc sử biên chép công việc hàng năm về điển lễ còn sơ lược nhiều.
Huống chi từ năm Bính Ngọ (1786) có việc binh đao đến giờ sách cũ tan nát, chỉ
còn được một ít của các cố gia thế tộc cất dấu đi. Các sách nát, vở cũ còn lại biên
chép lẫn lộn sai lẫn chưa có đầu mối. Có bàn về điển cố các triều thì lờ mờ không
bằng cứ vào đâu. Vậy thì chép lấy những điều mắt thấy tai nghe chia ra từng loại để
làm một quyển sách có khuôn phép, há chẳng phải là nhiệm vụ của người học giả
ư?” Như vậy có nghĩa là ông cũng tự coi mình là người phải có trách nhiệm với
nền văn sử học nước nhà .Và chính tư tưởng, cách nhìn mới này đã ngấm trong tư
tưởng của ông, để khi đi vào thực tế của quá trình trước tác, ông đã vận dụng một
cách tối đa tài năng, trí tuệ và sức lực của mình để đọc, lựa chọn, sắp xếp biên soạn
tư liệu từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau để tạo nên một tác phẩm mang tên ông, và
cũng được coi là bộ bách khoa của dân tộc đó là tác phẩm lịch triều hiến chương
loại chí.
1.2 Gia đình và dòng họ
Có thể nói rằng để có được những thành công mà Phan Huy Chú thì gia đình
và dòng họ là yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến cuộc sống, tài nămg của ông. Sinh ra
và lớn lên trong một gia đình mà cả bên nội, bên ngoại đều có truyền thống khoa
bảng và những người nổi tiếng ở góc độ di truyền học chúng ta có thể hiểu rằng
ông là sự hun đúc, kết tinh những tinh túy của hai dòng máu, tạo nên một Phan Huy
Chú tài năng hơn người.
10
Dòng họ Phan theo Phan gia công phả có nguồn gốc từ Gia Thiện Thạch
Châu, huyện Thạch Hà, Tỉnh Hà Tĩnh. Sau phân nhánh chuyển ra Thụy Khê Sài
Sơn mà sự di chuyển này có mối liên hệ với hai người cô ruột của Phan Huy Cận
( ông nội Phan Huy Chú). Hai bà là Phan Thị Nẫm và Phan Thị Lĩnh là cung tần
của các chúa Trịnh. Bà Nẫm từng xuất tiền ra sửa chữa chùa Hoa Phát ở xã Sài Khê
(Sài Sơn) còn bà Lĩnh được Khang Vương( Trịnh Căn ) rất sủng ái và bà từng theo
xe tháp tùng Trịnh Căn đi tuần du phía Tây, có xem phong cảnh Sài Sơn và góp
tiền xây dựng chùa ở đây. Sau khi Trịnh Căn mất bà về Thụy Khê sinh sống. Có lẽ
vì mối nhân duyên gia đình đó mà sau này Phan Huy Cận có mặt và lập nghiệp ở
vùng đất này, tạo thành một chi nhánh riêng của dòng họ Phan Huy.
Cũng theo Phan gia công phả thì những thế hệ trước của Phan Huy Chú có
rất nhiều người đã theo nghiệp binh và có những cống hiến lớn cho đất nước, được
phong tước hầu tước bá. Đến đời thứ 8 thì bắt đầu cho một truyền thống khoa bảng.
Người đầu tiên đỗ tiến sĩ ( 1754 ) chính là ông nội của Phan Huy Chú là Phan Huy
Cận, ông được phong chức giảng quan thị công bộ, đến năm Chiêu Thống thứ 2
ông được phong lễ bộ thị lang , cũng từng được phái đi sứ nhà Thanh. Ông là một
người tài giỏi làm dạng danh cho dòng họ và có nhiều đóng góp cho đất nước. Tiếp
theo là Phan Huy Ích (cha của Phan Huy Chú )và Phan Huy Ôn ( bác ) cũng là
những người đỗ tiến sĩ. Phan Huy Ích đỗ tiến sĩ năm 1775 làm quan thời Lê, sau
khi nhà Lê mất ông được triều Tây Sơn mời ra giao cho trọng trách lo việc bang
giao với nhà Thanh và nước lân cận. Năm 1790 ông được xung vào đoàn sứ bộ
sang Thanh chúc thọ hoàng đế Càn Long. Sau khi trở về ông được thăng chức
thượng thư bộ lễ, tước thụy nham hầu. Khi nhà Tây Sơn mất ông về làng Thụy Khê
viết sách, làm thơ và qua đời ở đấy. Phan Huy Ích không chỉ là một danh thần đã có
đóng góp vào việc nội trị và ngoại giao thời Tây Sơn mà ông còn là một nhà thơ, sự
nghiệp thơ sáng tác thơ văn của ông mà đặc biệt là thơ bang giao, những vần thơ
được ghi lại những cảnh tượng, sự việc mắt thấy tai nghe trên đường đi sứ ( cách
ghi chép này đã ảnh hưởng đến Phan Huy Chú sau này), hay đôi khi là những cảm
11
xúc, nổi lòng nhớ người thân khi xa cách, đã thể hiện rõ tài năng của một nhà thơ
nhà chính trị học đồng thời ông cũng là dịch giả của Chinh phụ ngâm khúc. Phan
Huy Chú còn có những người chú như Phan Huy Ôn cũng là người đỗ tiến sĩ
(1779), làm đốc đồng Tây Sơn, Thái Nguyên, Thị chế Hàn Lâm viện. Năm ông mất
cũng là năm Quang Trung kéo quân ra Thăng Long diệt họ Trịnh cũng cố lại ngôi
vua cho họ Lê. Tuy mât sớm nhưng ông đã để lại cho đời những tác phẩm có giá trị
như liệt truyện đăng khoa lục hay Chỉ minh lập thành toán pháp ông cũng được
coi là nhà sử học kiêm toán học của thế kỷ thứ 18. Ở đây chúng ta có thể nói thêm
rằng ông nội, cha và bác cùng đỗ tiến sĩ và ra làm quan dưới thời vua Lê – chúa
Trịnh “ tam phụ tử huynh đệ đồng triều “ . Ngoài ra chúng ta còn thấy một số tên
tuổi như Phan Huy Sảng, Phan Huy Thự …đều theo con đường khoa cử, có người
thì ra làm quan có người thì dạy học, làm thơ văn… đa số những người ra làm
quan, họ đều trở thành những sứ thần mang trọng trách lớn làm dạng danh cho dân
tộc.
Không chỉ bên nội mới có truyền thống khoa cử mà hơn nữa Phan Huy chú
cũng được thừa hưởng những yếu tố cơ bản bên ngoại. Gia đình bên ngoại cũng là
một trong những gia đình dòng dõi, nổi danh, nhiều người làm quan và đổ đạt. Mẹ
ông là bà Ngô Thị Thục, con gái của Ngô Thì Sĩ (ông ngoại ), bác là Ngô Thì
Nhậm, và cậu là Ngô Thì Vị. Có lẽ khi nghe thấy những tên tuổi của dòng họ Ngô
này ắt hẳn chúng ta không thể không tự hào thay cho Phan Huy Chú. Họ không chỉ
là những nhà ngoại giao, nhà chính trị,quân sự tài ba mà còn là những nhà thơ, nhà
văn nổi tiếng. Họ đã có rất nhiều đóng góp cho chính quyền đương thời và văn hóa
nước nhà. Chúng ta có thể ngầm hiểu với nhau rằng sự kết tinh của hai dòng họ đã
làm nên một “thiên tài” Phan Huy Chú, một nhà bác học lỗi lạc với tác phẩm lịch
triều hiến chương loại chí được coi bộ bách khoa toàn thư của dân tộc.
Trong khuôn khổ gia tộc Phan Huy Chú thực sự đã được thừa hưởng tất cả
những gì tốt đẹp nhất của gia đình và dòng họ mình. Có lẽ ít có người nào lại có
12
được thuận lợi như ông khi mà cả gia đình có đến chín lần đổ đàu ở các kì thi. Có
một bài thơ với nhan đề Thứ nam Thực sinh hi phú ( tức là bài phú mừng sinh con
trai thứ là Thực) trong Dụ am ngâm lục Phan Huy Ích có viết rằng:
Văn phái dư lan cụ cửu nguyên
( Dòng văn để lại đủ cả cửu nguyên)
Với lời chú như sau “ phụ thân tôi thi hương , thi hội hai lần đỗ đầu
( lưỡng nguyên ) Bố vợ tôi (Ngô Thì Sĩ ) thi hội, thi đình hai lần đỗ đầu ( lưỡng
nguyên) Tôi thi hương, thi hội, thi ứng chế ba lần đều đỗ đầu ( tam nguyên). Bác Hy
Doãn ( Ngô Thì Nhậm) và chú Nhã Hiên ( Phan Huy Ôn) đều đỗ đầu thi hương. Tất
cả cộng lại được chín lần đỗ đầu, gọi là cửu nguyên”. Ngoài ra còn rất nhiều người
trong dòng họ tuy không đỗ cao nhưng cũng là những nhà quân sự, nhà giáo, hay
nhà thơ nhà văn… Đó chính là niềm tự hào không chỉ của Phan Huy Ích mà còn là
niềm tự hào của người con trai yêu quý Phan Huy Chú về dòng họ của mình. Ông
có chép trong lời tựa lịch triều hiến chương loại chí rằng : “ Tôi may nhờ được sách
vở của các đời để lại và sự dạy dỗ của gia đình nên về điển chương gọi là có biết
qua đầu mối”. Như vậy là cùng với tất cả những nguồn sống trong đó có sự dạy dổ
kèm cặp của gia đình cùng với kho sách quý báu của cha ông để lại và sự bồi đắp
từ những người thân nơi kết hợp của hai dòng họ danh tiếng, lẫn tài năng và sự
miệt mài, kiên trì cả sự nổ lực không ngừng của bản thân mình đã giúp Phan Huy
Chú có được những thành công trong sự nghiệp sáng tác của mình.
I.2 Ảnh hưởng của xu hướng biến đổi quan niệm “văn sử triết bất phân”
trong giai đoạn cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX tới quá trình biên soạn
khảo cứu của Phan Huy Chú.
13
Có thể nói cuối thế kỷ thứ 18 đầu 19 xu hướng văn sử triết bất phân vẫn phát
triển nhưng cùng với sự phát triển của những xu thế xã hội mới đã đưa khối văn sử
triết vào một giai đoạn mới, bản thân nó đã có sự phân tách, tuy sự phân tách này
chưa có một ranh giới rạch ròi cụ thể nhưng trên thực tế nó đã có những đường nét
riêng biệt.
Như chúng ta đã biết trong thời trung đại thì hiện tượng văn - sử - triết bất
phân là một trong những đặc trưng của văn học cổ sản phẩm của một trình độ tư
duy nghệ thuật mà trong đó hai hình thái tư duy lý luận và tư duy hình tượng còn
đan xen với nhau mà chưa tách rời nhau như ở thời hiện đại. Một điều chúng ta
không thể phủ nhận đó là trong suốt một giai đoạn phát triển của lịch sử 10 thế kỷ ,
tức là đến đầu thế kỷ 20 thì các lĩnh vực như văn sử triết luôn là bất phân, nó là sự
đan xen hoà lẫn vào nhau, trong văn có sử và triết trong sử có triết và văn, hay
ngược lại trong triết lại có cả văn và sử. Là một nhà thơ, nhà văn có thể cũng là nhà
chính trị, nhà sử học… Nói chung bậc trí thức trong xã hội bấy giờ họ có thể kiêm
rộng hơn phạm vi cụ thể nghề nghiệp nào đó như một nhà nho có thể vừa là y, lý,
số…Do vậy mà chính trong mỗi tác giả cũng đã có sự kết hợp, đan xe về mặt tư
duy. Tuy nhiên không phải thời kỳ nào sự đan xen ấy cũng tồn tại đậm nét, mà ở
từng giai đoạn cụ thể, ở mỗi người nó có sự ảnh hưởng khác nhau.
Khi mà giai đoạn cuối thế kỷ thứ 18 đầu 19 các lĩnh vực như triết học, sử
học chính trị học, kinh tế học đều từng bước phát triển theo hướng riêng thì đây lại
là một trong những điều kiện quan trọng để khối văn sử triết đi vào một giai đoạn
mới, hơn nữa nó cũng có sự tác động lớn tới văn học giai đoạn này, mà đặc biệt là
chính những người sáng tác trong các lĩnh vực ấy cũng có những bước chuyển biến
về tư duy. Về mặt triết học thì có thể thấy rằng trước đây văn học là nơi để chuyên
chở những tư tưởng triết học. Nhưng thời kì này văn học không còn là nơi phù hợp
để các nhà triết học thể hiện quan điểm của mình, các nhà triết học đã tìm ra cho
mình một lối đi riêng, họ không còn bày tỏ tư tưởng mang màu sắc triết học trong
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét