Chuyên đề tốt nghiệp
Phân loại theo tiêu thức này chỉ ra chức năng của từng loại doanh nghiệp. Chức năng
chủ yếu của các doanh nghiệp tài chính là làm môi giới thu hút và chuyển giao vốn từ
nới thừa vốn đến nơi thiếu để đầu tư phát triển kinh tế. Đối với các doanh nghiệp phi
tài chính, chức năng chủ yếu là cung cấp các sản phẩm, hàng hoá hay dịch vụ phi tài
chính đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nền kinh tế. Qua tiêu thức phân loại này Nhà
nước có thêm căn cứ để hoạch định các chính sách quản lý phù hợp với mỗi loại hình
doanh nghiệp trong từng ngành nghề,
Thứ tư: dựa vào quy mô kinh doanh người ta chia doanh nghiệp thành các loại doanh
nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp nhỏ.
Việc quy định thế nào là doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ là tuỳ thuộc vào điều kiện
kinh tế xã hội cụ thể của từng nước và nó cũng thay đổi theo từng thời kỳ, từng giai
đoạn phát triển kinh tế. Tại nước ta, tiêu chí phân loại DNVVN đã được quy định tạm
thời tại công văn số 681/CP – KTN ngày 20/6/1998 của Thủ tướng Chính phủ. Theo
quy định tại công văn này, tiêu chí xác định DNVVN là vốn và số lao động. Cụ thể là
DNVVN là doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và số lao động trung bình
hàng năm dưới 200 người.
Để khuyến khích và tạo thuận lợi cho việc phát triển các DNVVN, ngày 23/11/2001
Chính phủ đã ra nghị định 90/2001/NĐ - CP. Trong đó quy định DNVVN là cơ sở
sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn
đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300
người. Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể của ngành, địa phương trong quá
trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể áp dụng linh hoạt đồng
thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu trên.
Bảng 1.1 Tiêu chí xác định DNVVNM ở một số quốc gia
Tên nước Số lao động
Tổng số vốn hoặc
giá trị tài sản
Nhật dưới 50 trong bán lẻ
dưới 100 trong bán buôn
dưới 10 triệu yên
dưới 30 triệu yên
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
5
Chuyên đề tốt nghiệp
dưới 300 ngành khác dưới 100 triệu yên
Mỹ dưới 500
Thái Lan dưới 100 dưới 20 triệu bạt
Xin ga po dưới 100 dưới 499 triệu SD
Phi líp pin dưới 200 dưới 100 triệu pê-sô
In đo nê xia dưới 100 dưới 0,6 tỉ ru-pi
1.1.2 Vai trò, đặc điểm doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.2.1 Vai trò doanh nghiệp vừa và nhỏ
Xét về mặt lịch sử, sự ra đời và phát triển của các nước tư bản có nền đại công
nghiệp phát triển gắn với những công ty, tập đoàn kinh tế lớn như ngày nay thì sự
khởi đầu của họ cũng là những xí nghiệp, công trường thủ công sản xuất nhỏ. Trong
quá trình phát triển, sự tích tụ và tập trung vốn cùng với quá trình cạnh tranh gay gắt
giữa những xí nghiệp trong nướcvà ngoài nước đã tạo ra những tập đoàn kinh tế lớn
như ngày nay. Tuy vậy, ngay cả ở các nước tư bản phát triển, các DNVVN vẫn giữ
một vị trí quan trọng và ngày càng được khẳng định. Bởi vì nhiều lĩnh vực kinh tế chỉ
có thể sản xuất kinh doanh có hiệu quả bởi các DNVVN. Sau thời kỳ suy thoái kinh
tế những năm đầu thập niên 30, người ta luận ra rằng khu vực DNVVN là nhân tố
cực kỳ quan trọng thúc đẩy và mở rộng cạnh tranh, bảo đảm và ổn định kinh tế,
phòng chống nguy cơ khủng hoảng. Thật vậy, khu vực DNVVN là xương sống trong
nền kinh tế của nhiều quốc gia hiện tại và cả tương lai. Đặc biệt khi cuộc Cách mạng
khoa học và công nghệ ngày càng phát triểnđã tạo điều kiện cho các DNVVN nhiều
cơ hội tập trung kỹ thuật, có khả năng sản xuất các sản phẩm không thua kém các
doanh nghiệp lớn. Mặt khác xét trên phạm vi toàn cầu hiện nay về tính chất cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp đang chuyển từ cạnh tranh giá cả sang cạnh tranh về
chất lượng và công nghệ. Trong điều kiện này, lợi thế của các doanh nghiệp có quy
mô lớn sẽ bị giảm sút. Sự phát triển của chuyên môn hoá và hợp tác hoá đã không
cho phép một doanh nghiệp tự khép kín chu trình sản xuất kinh doanh một cách có
hiệu quả. Mà với mô hình sản xuất kiểu vệ tinh, trong đó các DNVVN là vệ tinh cảu
doanh nghiệp lớn tỏ ra rất thích hợp. Như vậy, một nền kinh tế hiện đại thì DNVVN
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
6
Chuyên đề tốt nghiệp
ngày càng không thể tan biến trong các tập đoàn kinh tế lớn mà khả năng hợp tác để
mở rộng lại ngày càng tăng.
Đối với Việt Nam, một nước đang phát triển đang tiến tới một nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN thì DNVVN càng có ý nghĩa quan trọng. Thể hiện cụ thể trên các
mặt sau :
- DNVVN chiếm tỷ trọng cao về số lượng, thu hút nhiều lao động và đóng góp
phần lớn thu nhập quốc dân cho đất nước. Theo số liệu thống kê của các nhà kinh tế,
hiện nay DNVVN của nước ta chiếm trên 80% tổng số doanh nghiệp, tạo công ăn
việc làm cho khoảng 95% lao động xã hội. Như vậy, phát triển DNVVN là chủ
trương đúng đắn của Đảng, nó được gắn liền với đường lối phát triển kinh tế nhiều
thành phần của Đảng theo định hướng kinh tế thị trường nhằm giải quyết việc làm,
tăng thu nhập, góp phần vào ổn định tình hình kinh tế xã hội.
- Các DNVVN đóng vai trò quan trọng trong lưu thông hàng hoá và cung cấp dịch
vụ, có vai trò bổ sung cho các doanh nghiệp lớn, là xí nghiệp gia công vệ tinh cho các
doanh nghiệp lớn cùng hệ thống và là màng lưới tiêu thụ hàng hoá cho các doanh
nghiệp lớn. Hiện DNVVN chiếm khoảng 31% tổng sản lượng công nghiệp hàng năm,
78% doanh số bán lẻ trong thương nghiệp, 64% khối lượng vận chuyển hành khách
và hàng hoá.
- Các DNVVN đáp ứng tích cực, kịp thời nhu cầu tiên dùng ngày càng phong phú
và đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được, chế biến hàng hoá xuất
khẩu và tăng kim ngạch xuất khẩu. Hệ thống siêu thị cũng không thể thay thế được
các của hàng bán lẻ, những nhà máy quy mô lớn hiện đại không sản xuất được những
sản phẩm đơn chiếc.Bằng sự đa dạng ngành nghề, tính nhạy cảm thị trường các
DNVVN sẽ có nhiều thuận lợi trong sản xuất và cung cấp dịch vụ, đáp ứng mọi sản
phẩm và nhu cầu tiêu dùng cầu xã hội. Với lợi thế so sánh về các nguyên liệu nông
lâm thuỷ hải sản để sản hàng hoá xuất khẩu, lợi thế về ngành nghề thủ công truyền
thống đã tạo ra khả năng vô cùng to lớn cho khu vực DNVVN tham gia sản xuất, gia
công chế biến, đại lý khai thác cho xuất khẩu. Do DN lớn hạn chế về khu vực địa lý,
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
7
Chuyên đề tốt nghiệp
phương pháp tổ chức sản xuất và nếu muốn kinh doanh thường phải sử dụng các
DNVVN làm vệ tinh thu mua nguyên liệu, chế biến, đóng gói
- Các DNVVN có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế địa phương, khai
thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng sản xuất. Phát triển DNVVN sẽ giúp các địa
phương khai thác thế mạnh về đất đai, tài nguyên, lao động trong mọi lĩnh vực phục
vụ phát triển kinh tế địa phương. Từng địa phương cũng bị giới hạn bởi ngân sách,
khả năng tích tụ và tập trung vốn của DN tư nhân không nhiều nên việc phát triển
doanh nghiệp lớn là hạn chế. Chính vì vậy, Đảng và Chính phủ ta đưa ra các chính
sách hỗ trợ phát triển kinh tế trang trại ở vùng núi phía Bắc, vùng cao nguyên Nam
trung bộ và phát huy các làng nghề truyền thống.
Như vậy, có thể khẳng định vị trí và vai trò của các DNVVN, đồng thời việc chú
trọng phát triển các DNVVN là một trong những hướng chiến lược quan trọng quá
trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Bảng 1.2Đánh giá vai trò DNVVN ở Việt Nam
TT Vai trò Tỷ lệ ( % )
1
Góp phần tăng trưởng kinh tế
51,7
2
Tạo việc làm, tăng thu nhập
88,5
3
Tăng tính năng động và hiệu quả của nền kinh tế
83,2
4
Tham gia đào tạo đội ngũ các nhà kinh doanh Việt Nam
63,2
(Nguồn: Chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt Nam)
1.1.2.2 Một số đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ :
Doanh nghiệp vừa và nhỏ tồn tại và phát triển ở mọi thành phần kinh tế. ở nước ta,
DNVVN chiếm 33,6% trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; 65,9%
trong các hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã; 94,6% công ty trách nhiệm hữu hạn;
99,4% doanh nghiệp tư nhân; 65,9% doanh nghiệp Nhà nước và gần 100% doanh
nghiệp hoạt động ở lĩnh vực nông thôn là các DNVVN.
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
8
Chuyên đề tốt nghiệp
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có tính năng động và linh hoạt cao trước nững thay đổi của
thị trường, có khả năng chuyển hướng kinh doanh và chuyển hướng mặt hàng nhanh
vì vốn đầu tư ít và thu hồi vốn nhanh. Các DNVVN dễ phát huy bản chất hợp tác, có
thể duy trì tự do cạnh tranh và phát huy tiềm lực ở trong nước.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có bộ máy tổ chức quản lý gọn nhẹ, có hiệu quả. Các
quyết định quản lý được đưa ra và thực hiện nhanh chóng, không ách tắc và tránh
phiền hà nên có thể tiết kiệm tối đa chi phí quản lý DN.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn ban đầu ít, thu hồi vốn nhanh, hiệu quả cao, ít
xảy ra rủi ro nên tạo ra nhiều khả năng đầu tư của các cá nhân và mọi thành phần
kinh tế.
Bên cạnh một số đặc điểm thể hiện những ưu diểm trên, DNVVN cũng còn những
đặc điểm bộc lộ mặt hạn chế như, nguồn tài chính hạn hẹp nên quá trình tích tụ và tập
trung để đầu tư tái sản xuất diễn ra rất chậm chạp, trình độ quản lý sản xuất kinh
doanh còn nhiều hạn chế, khó khăn thâm nhập vào thị trường thế giới và khu vực.
1.2 Khái quát chung về NHTM
1.2.1 Khái niệm.
Ngân hàng thương mại đã hình thành tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn
liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống NHTM đã có tác
động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược
lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị
trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài
chính không thể thiếu được.
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM. Tại Mỹ, NHTM được cho là
“công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong
ngành công nghiệp dịch vụ tài chính”.
Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) định nghĩa: “NHTM là những xí nghiệp
hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình
thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ
trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”.
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
9
Chuyên đề tốt nghiệp
Ở Việt Nam, theo Luật tổ chức tín dụng khoản 1 và khoản 7 Điều 20 xác định
“Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân
hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung cấp các
dịch vụ thanh toán” và trong các loại hình tổ chức tín dụng thì “NHTM là một tổ
chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của
khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các
nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Tóm lại, NHTM là một tổ chức tài chính cung cấp đa dạng các dịch vụ tài
chính mà chủ yếu là nhận tiền gửi, cho vay và các dịch vụ thanh toán.
1.1.2 Vai trò của NHTM
1.1.2.1 Chức năng tập trung vốn
Trong nền kinh tế có những chủ thể có dư tiền và khoản tiền đó chưa được sử dụng
một cách triệt để (ví dụ như vẫn còn cất giấu trong nhà chưa được mang ra lưu thông)
nhưng họ cũng muốn tiền này sinh lời cho mình và họ nghĩ là cho vay và có những
chủ thể cần tiền để hoạt động kinh doanh. Nhưng những chủ thể này không quen biết
nhau và cũng có thể không tin tưởng nhau nên tiền vẫn chưa được lưu thông. Ngân
hàng thương mại với vai trò trung gian của mình, nhận tiền từ người muốn cho vay,
trả lãi cho họ và đem số tiền ấy cho người muốn vay vay. Thực hiện được điều này
NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế; mặt khác với
số vốn này NHTM sẽ đáp ứng được nhu cầu vốn của nền kinh tế để sản xuất kinh
doanh. Qua đó nó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. NHTM vừa là người đi vay vừa là
người cho vay và với số lãi suất chênh lệch có được nó sẽ duy trì họat động của
mình.
Vai trò trung gian này trở nên phong phú hơn với việc phát hành thêm cổ phiếu,
trái phiếu,… NHTM có thể làm trung gian giữa công ty và các nhà đầu tư; chuyển
giao mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán; đảm nhận việc mua trái phiếu công
ty…
1.1.2.2 Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán.
Chức năng này có nghĩa là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản hay chi trả
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
10
Chuyên đề tốt nghiệp
tiền theo lệnh của chủ tài khỏan. Khi các khách hàng gởi tiền vào ngân hàng, họ sẽ
được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu chi một cách nhanh
chóng tiện lợi, nhất là đối với các khỏan thanh tóan có giá trị lớn, ở mọi địa phương
mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém khó khăn và không an toàn (ví dụ: chi phí
lưu thông, vận chuyển, bảo quản…).
Khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông và độc
quyền quản lý các công cụ đó (sec, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán ) đã tiết kiệm
cho xã hội rất nhiều vể chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc
đẩy quá trình lưu thông hàng hóa. Ở các nước phát triển phần lớn thanh toán được
thực hiện qua sec và được thực hiện bằng việc bù trừ thông qua hệ thống ngân hàng
thương mại. Ngoài ra việc thực hiện chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp qua
việc thực hiện các nghiệp vụ thanh toán đã tạo cơ sở cho ngân hàng thực hiện các
nghiệp vụ cho vay.
Hiện nay ở các nước công nghiệp phát triển việc sử dụng hình thức chuyển tiền bằng
điện tử là chuyện bình thường và chính điều này đưa đến việc không sử dụng sec
ngân hàng mà dùng thẻ như thẻ tín dụng. Họ thanh toán bằng cách nối mạng các máy
vi tính của các ngân hàng thương mại trong nước nhằm thực hiện chuyển vốn từ tài
khoản người này sang người khác một cách nhanh chóng.
1.1.2.3 Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai cấp
Vào cuối thế kỉ 19 hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, các ngân hàng không
còn họat động riêng lẽ nữa mà tạo thành hệ thống, trong đó ngân hàng trung
ương là cơ quan quản lý về tiền tệ, tín dụng là ngân hàng của các ngân hàng. Các
ngân hàng còn lại kinh doanh tiền tệ, nhờ họat động trong hệ thống các NHTM đã tạo
ra bút tệ thay thế cho tiền mặt.
Quá trình tạo ra tiền của NHTM được thực hiện thông qua tín dụng và thanh toán
trong hệ thống ngân, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống ngân hàng trung ương
mỗi nước.
1.2.3 Các hoạt động NHTM
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
11
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.3.1 Nghiệp vụ tạo vốn
Là nghiệp vụ hình thành nên nguồn vốn hoạt động của ngân hàng, được gọi là nghiệp
vụ cơ bản vì các nguồn vốn này nằm bên tài sản Nợ trên bảng tổng kết tài sản của
ngân hàng thương mại. Các nguồn vốn của ngân hàng thương mại gồm có”
*Vốn tự có và quỹ ngân hàng: trong đó vốn điều lệ là số vốn ban đầu phải lớn hơn
mức tối thiểu do nhà nước quy đinh mà ngân hàng phải có để được phép hoạt động.
Tùy theo loại hình ngân hàng mà các chủ thể góp vốn khác nhau: với ngân hàng tư
nhân thì đó là vốn riêng của một doanh nghiệp đầu tư, với ngân hàng cổ phần thì vốn
điều lệ được hình thành do phát hành cổ phiếu, nếu ngân hàng quốc doanh thì toàn bộ
do ngân sách nhà nước cấp.
Quỹ ngân hàng bao gồm: quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu tư và phát triển,
quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm, quỹ khác….ngoài ra còn
có các quỹ không hình thành từ lợi nhuận ngân hàng như quỹ khấu hao cơ bản tài srn
cố định, quỹ khấu hao sữa chữa lớn, các quỹ khác theo quy định của pháp luật tài
chính.
Nguồn vốn tự có của ngân hàng chiếm tỉ trọng không lớn trong tổng nguồn vốn của
ngân hàng nhưng nó đóng vai trò quan trọng vì đó là cơ sở để tiến hành kinh doanh,
tiến hành thu hút những nguồn vốn khác.
*Vốn tiền gửi của khách hàng: lịch sử phát triển ngành ngân hàng cho thấy để bảo
quản số tiền vàng, người ta đã thuê ngân hàng giữ hộ và đòi hỏi hoàn trả đúng số tiền
đã gửi nên ngân hàng không thể dùng chúng để cho vay. Về sau, người ta chỉ yêu cầu
phải hoàn trả đủ số lượng với thời hạn lâu hơn nên ngân hàng có thể sử dụng vốn tiền
gửi của khách hàng để cho vay kiếm lời, còn người gửi tiền không những không phải
trả tiền thua giữ tiền mà còn được hưởng lãi suất trên số tiền đó.
Trong tổng nguồn vốn hoạt động, vốn tiền gửi là vốn chủ yếu của ngân hàng, nó
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại
Để bảo đảm một khoảng cách an toàn trong hoạt động của ngân hàng, trong mối
tương quan giữa vốn tự có và vốn huy động, nếu chênh lệch đó càng lớn thì hệ số an
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
12
Chuyên đề tốt nghiệp
toàn của ngân hàng càng thấp. Vì vậy, để đảm bảo mức độ an toàn tối thiếu, cần có
quy định giới hạn giữa vốn tự có và vốn huy động.
*Nguồn vốn đi vay: có vị trí quan trọng trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương
mại. thuộc loại này bao gồm:
-Vốn huy động từ việc phát hành các loại kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi của
ngân hàng nhằm bổ sung nguồn vốn hoạt động của ngân hàng khi vốn tự có và vốn
tiền gửi chưa đủ đáp ứng yêu cầu kinh doanh.
-Vốn vay của ngân hàng trung ương: khi ngân hàng trung ương nhận cho vay chiết
khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá của ngân hàng thương mại.
-Vốn vay của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác thông qua thị
trường tiền tệ ngắn hạn. Tại đây, các ngân hàng thiếu tiền thanh toán sẽ vay của các
ngân hàng khác để thanh toán, nghiệp vụ này vừa giúp cho các ngân hàng thiếu tiền
có tiền mặt ngay vừa giúp cho những ngân hàng dư tiền cho vay để sinh lời.
-Vốn vay của các ngân hàng nước ngoài.
*Nguồn vốn tiếp nhận: những nguồn vốn mà ngân hàng thương mại ủy thác từ các tổ
chức trong hoặc ngoài nước từ ngân sách nhà nước để cho vay trung, dài hạn thuộc
kế hoạch xây dựng cơ bản tập trung của nhà nước, để thực hiện những dự án có mục
tiêu định trước trong sản xuất kinh doanh.
*Các nguồn khác như vốn phát sinh trong quá trình hoạt động của ngân hàng như khi
làm đại lý, dịch vụ thanh toán, làm trung gian thanh toán…
1.2.3.2.Nghiệp vụ sử dụng vốn
Là nghiệp vụ sử dụng các nguồn vốn hình thành của ngân hàng, chúng thuộc bên Có
trên bảng tổng kết tài sản nên còn được gọi là nghiệp vụ Có. Bao gồm:
*Thiết lập dự trữ: Hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm mục đích kiếm lời.
Song cần phải bảo đảm an toàn để giữ vững được lòng tin của khách hàng. Muốn có
được sự tin cậy về phía khách hàng, trước hết phải bảo đảm khả năng thanh toán làm
sao để đáp ứng được các nhu cầu rút tiền của khách hàng. Muốn vậy, các ngân hàng
phải để dành một phần nguồn vốn, không sử dụng nó, để sẵn sàng đánh ứng nhu cầu
thanh toán. Phần vốn để dành này gọi là dự trữ.
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
13
Chuyên đề tốt nghiệp
-Tiền mặt tại quỹ: có khả năng thanh toán kịp thời nhất. Ngân hàng thương mại phải
để tại quỹ của mình một số tiền phòng hộ theo một tỷ lệ nhất định trên tiền gửi của
khách hàng để đáp ứng nhu cầu thanh toán hoặc rút tiền mặt của khách hàng trong
ngày.
-Tiền gửi tại ngân hàng trung ương: theo quy định, ngân hàng thương mại phải mở tài
khoản tại ngân hàng trung ương và gửi vào đó một số tiền nhất định gồm 2 phần:
+Phần tối thiểu theo quy định của ngân hàng trung ương về tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Ngân hàng trung ương được phép ấn định một tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong từng thời
kỳ nhất định. Việc trả lãi cho tiền gửi dự trữ bặt buộc do chính phủ quy định.
+Phần còn lại dùng để giao hoán séc và thanh toán nợ với các tổ chức tín dụng và
ngân hàng thương mại khác.Tiền gửi của ngân hàng thương mại phải mở tài khoản
tại ngân hàng trung ương biến động hàng ngày vì mỗi ngày ngân hàng thương mại
đều có nộp hay rút tiền mặt, đổi séc tại phòng giao hoán.
-Tiền gửi của ngân hàng thương mại tại các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín
dụng khác để đáp ứng nhu cầu thanh toán, chuyển tiền khác địa phương của khách
hàng, số này cao hay thấp tùy theo mức độ quan hệ với đại lý và số lượng đại lý.
-Tiền đầu tư vào các chứng phiếu có giá trị, những chứng phiếu này có thể bán ra bất
cứ lúc nào trên thị trường chứng khoán. Hoạt động này vừa tạo ra sự an toàn vừa
mang lại lợi nhuận cho ngân hàng thương mại.
*Nghiệp vụ tín dụng: của ngân hàng thương mại sử dụng phần lớn nguồn vốn hoạt
động của ngân hàng. Nghiệp vụ tín dụng gồm có:
-Chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác: đây là ngiệp vụ cho vay gián
tiếp mà ngân hàng sẽ cung ứng vốn tín dụng cho một chủ thể và chủ thể khác thực
hiện việc trả nợ cho ngân hàng, là việc ngân hàng mua thương phiếu của khách hàng,
đây phải là những thương phiếu còn trong thời hạn hiệu lực, người sở hữu những
thương phiếu đó khi bán cho ngân hàng sẽ nhận một số tiền bằng mệnh giá của
thương phiếu trừ cho lợi tức chiết khấu do ngân hàng quy định.
SV: Chu Văn Tùng Lớp: TCDN 49C
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét