MỞ ĐẦU
Thanh toán bằng thư tín dụng (L/C) là phương tiện thanh toán chủ yếu trong quan
hệ thương mại quốc tế. Dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng ngày càng phát triển tại các
ngân hàng thương mại. Thực tế số lượng các giao dịch thanh toán bằng thư tín dụng đã
tăng nhanh chóng trong thời gian gần đây. Mặc dù vậy, các văn bản pháp luật điều chỉnh
hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng chưa được quan tâm xây dựng và ban hành xứng
với yêu cầu của thực tiễn. Đồng thời, kỹ thuật áp dụng tương đối phức tạp, các bên tham
gia lại thiếu hiểu biết nên tranh chấp liên quan đến thư tín dụng vẫn thường xảy ra. Vì vậy,
nghiên cứu “pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng, những vấn đề
thực tiễn phát sinh” việc làm cần thiết để từng bước hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt
động này.
NỘI DUNG
I. Khái quát về thư tín dụng
1. Khái niệm
Theo quy định tại Điều 16 Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước ngày 26/3/2002 về việc ban hành Quy chế thanh toán qua các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán: “Thư tín dụng là một văn bản cam kết có điều kiện được
ngân hàng mở theo yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán (người xin mở thư tín
dụng), theo đó ngân hàng thực hiện yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán để:
- Trả tiền hoặc ủy quyền cho ngân hàng khác trả tiền ngay theo lệnh của người thụ
hưởng khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện của thư tín dụng;
hoặc
Chấp nhận sẽ trả tiền hoặc ủy quyền cho ngân hàng khác trả tiền theo lệnh của
người thụ hưởng vào một thời điểm nhất định trong tương lai khi nhận được bộ chứng từ
xuất trình phù hợp với các điều kiện thanh toán của thư tín dụng”.
Đây là định nghĩa trực tiếp về thư tín dụng duy nhất trong hệ thống pháp luật Việt
Nam, đã phản ánh được bản chất của thư tín dụng là cam kết bằng văn bản của ngân hàng,
được phát hành theo lệnh của người mua cho người bán hưởng và thể hiện được hai
phương thức thanh toán trả ngay và trả chậm.
2. Đặc điểm
- Thư tín dụng độc lập với hợp đồng mua bán.
Thư tín dụng hình thành trên cơ sở hợp đồng mua bán bởi người yêu cầu mở thư tín
dụng phải dựa vào hợp đồng mua bán đã ký để viết yêu cầu mở thư tín dụng. Nhưng sau
khi được thiết lập, thư tín dụng lại hoàn toàn độc lập so với hợp đồng mua bán. Trong quá
trình thực hiện thư tín dụng, ngân hàng không có nghĩa vụ phải xem xét việc thực hiện hợp
đồng mua bán mà chỉ căn cứ vào việc kiểm tra bộ chứng từ phù hợp với các điều khoản
của thư tín dụng.
- Thư tín dụng là cam kết độc lập của ngân hàng về việc trả tiền cho người thụ
hưởng.
Nghĩa vụ trả tiền cho người thụ hưởng là nghĩa vụ bắt buộc của ngân hàng và ngân
hàng là người trực tiếp trả tiền cho người thụ hưởng. Cam kết trả tiền của ngân hàng không
liên quan đến mối quan hệ giữa ngân hàng và người yêu cầu mở thư tín dụng.
- Thư tín dụng là kết quả của hợp đồng dịch vụ giữa người yêu cầu mở thư tín dụng
và ngân hàng phát hành, theo đó ngân hàng phát hành có nghĩa vụ mở thư tín dụng còn
người yêu cầu có nghĩa vụ thanh toán phí mở thư tín dụng.
- Nội dung thư tín dụng gồm rất nhiều điều khoản như: số hiệu, địa điểm, tên, địa
chỉ của người có liên quan, số tiền của thư tín dụng, thời hạn hiệu lực, thòi hạn trả tiền,
thời hạn giao hàng, nội dung về hàng hóa, vận tải, giao nhận, những chứng từ mà người
xuất khẩu phải xuất trình…Những điều khoản này nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của
các bên vì nó thể hiện rõ quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia. Đây là đặc điểm mà các
phương tiện thanh toán khác không có được. Giao dịch thương mại giữa các bên không có
sự tin tưởng trước thì thư tín dụng rất thích hợp để sử dụng.
- Thư tín dụng là công cụ thanh toán có khả năng hạn chế rủi ro.
Thư tín dụng đáp ứng được yêu cầu hiệu quả và giảm thiểu rủi ro khi mà khả năng
thanh toán đã được đảm bảo bởi ngân hàng thông qua việc mở thư tín dụng không hủy
ngang. Người bán không còn lo ngại về khả năng của người mua trong việc thanh toán.
2. Phân loại
- Theo hiệu lực cam kết của ngân hàng, thư tín dụng có thể được phân chia thành:
+ Thư tín dụng có thể hủy ngang
+ Thư tín dụng không thể hủy ngang
- Căn cứ theo cách thức thực hiện đặc biệt:
+ Thư tín dụng chuyển nhượng
+ Thư tín dụng giáp lưng
+ Thư tín dụng tuần hoàn
+ Thư tín dụng đối ứng
+ Thư tín dụng điều khoản đỏ
+ Thư tín dụng dự phòng
- Căn cứ vào thời hạn thanh toán của thư tín dụng:
+ Thư tín dụng trả ngay
+ Thư tín dụng trả chậm
- Căn cứ vào phạm vi thực hiện:
+ Thư tín dụng thanh toán quốc tế
+ Thư tín dụng thanh toán nội địa
II. Pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng
1. Tập quán quốc tế và mối quan hệ với pháp luật Việt Nam
• Tập quán quốc tế
Hiện nay, trong quan hệ thương mại quốc tế chưa có điều ước quốc tế nào điều
chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng. Việc mở, thực hiện và giải quyết tranh chấp
liên quan đến thư tín dụng chủ yếu được điều chỉnh bởi tập quán quốc tế, cụ thể “Quy tắc
thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ” (UCP) do Phòng thương mại Quốc tế (ICC)
soạn thảo và ban hành. UCP là tập hợp các tập quán và thông lệ quốc tế điều chỉnh việc
thanh toán bằng tín dụng chứng từ. Lần đầu tiên ICC soạn thảo các quy tắc hướng dẫn thực
hiện thanh toán quốc tế ở phương thức tín dụng chứng từ vào năm 1922 nhưng nó không
mang tính quy tắc thống nhất và chỉ được áp dụng hạn chế ở một số ngân hàng châu Âu.
Năm 1933, ICC thông qua Quy tắc thực hành thống nhất thư tín dụng chứng từ thương
mại. Đây là bản UCP đầu tiên. Từ đó đến nay, UCP đã trải qua 6 lần sửa đổi vào các năm
1951, 1964, 1974, 1983, 1993 và lần gần đây nhất là năm 2007. Các bản UCP ra đời sau
không hủy bỏ bản UCP ra đời trước đó. Áp dụng văn bản nào là do các bên quyết định và
nhất thiết phải dẫn chiếu vào nội dung của thư tín dụng là áp dụng UCP số hiệu nào. Điều
1 UCP 600 chỉ ra phạm vi áp dụng: “Các quy tắc thực hành thống nhất về Tín dụng chứng
từ, bản sửa đổi 2007, ICC xuất bản số 600 là quy tắc áp dụng cho bất kỳ tín dụng chứng từ
nào bao gồm cả thư tín dụng dự phòng trong chừng mực mà các quy tắc này có thể áp dụng
nếu nội dung của tín dụng chỉ ra một cách rõ ràng nó phụ thuộc vào các quy tắc này. Các
quy tắc này ràng buộc tất cả các bên, trừ khi tín dụng loại trừ hoặc sửa đổi một cách rõ
ràng”.
Như vậy, UCP 600 không được tự động áp dụng để điều chỉnh hoạt động thanh
toán bằng thư tín dụng mà có giá trị pháp lý tùy nghi. UCP chỉ có hiệu lực khi trong hợp
đồng dẫn chiếu áp dụng rõ ràng. Và khi hợp đồng có dẫn chiếu áp dụng thì UCP lại trở
thành văn bản pháp lý có tính chất bắt buộc thực hiện. UCP chỉ áp dụng trong thanh toán
quốc tế, không áp dụng trong thanh toán nội địa.
Ngoài UCP, các văn bản sau đây cũng có giá trị hiệu lực điều chỉnh các hoạt động
thanh toán qua thư tín dụng:
- URR.525.1995 ICC: Quy tắc thống nhất hoàn trả tiền theo thư tín dụng.
- ISP98: Quy tắc quốc tế về tín dụng dự phòng năm 1998.
- eUCP 1.1: Bản phụ trương UCP 600 về việc xuất trình chứng từ điện tử - bản diễn
giải số 1.1 năm 2007.
- ISBP681.2007 ICC: Thanh toán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế để kiểm tra chứng
từ theo thư tín dụng – số 681 của ICC tuân thủ UCP 600 năm 2007.
• Mối quan hệ giữa tập quán quốc tế về hoạt động thanh toán bằng thư tín
dụng với pháp luật Việt Nam
UCP là tập quán áp dụng toàn cầu, luật quốc gia chỉ có giá trị hiệu lực trong phạm
vi lãnh thổ quốc gia. Ở nước ta, pháp luật thừa nhận việc áp dụng quy định của thông lệ và
tập quán quốc tế trong lĩnh vực thư tín dụng.
Khoản 4 Điều 3 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định: “Tổ chức, cá nhân
tham gia hoạt động ngân hàng được quyền thỏa thuận áp dụng tập quán thương mại, bao
gồm: a. Tập quán thương mại quốc tế do Phòng thương mại quốc tế ban hành; b. Tập
quán thương mại khác không trái với pháp luật của Việt Nam”.
Điều 4 Quyết định số 711/2001/QĐ-NHNN về ban hành Quy chế mở thư tín dụng
nhập hàng trả chậm quy định: “Việc mở L/C trả chậm để nhập khẩu hàng hóa phải phù
hợp với: 1. Chính sách nhập khẩu của nhà nước; 2. Các quy định hiện hành của nhà nước
liên quan đến vay, trả nợ nước ngoài, bảo đảm tiền vay và các quy định tại quy chế này; 3.
Quy chế thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ của Phòng thương mại Quốc tế (theo
phiên bản mà ngân hàng lựa chọn)”.
Điều 19 Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26/3/2002 về ban hành Quy chế
thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán quy định: “Thanh toán bằng thư
tín dụng: việc mở, phát hành, sửa đổi, thông báo, xác nhận, kiểm tra chứng từ, thanh toán
và quyền, nghĩa vụ… của các bên liên quan trong thanh toán thư tín dụng được thực hiện
theo các quy tắc chung về tín dụng chứng từ do Phòng Thương mại Quốc tế ICC ban hành,
do các bên tham gia thanh toán thảo thuận áp dụng theo quy định hiện hành của pháp luật
Việt Nam”.
Căn cứ vào các điều luật trên thì các bên tham gia hoạt động thanh toán bằng thư
tín dụng được phép thỏa thuận áp dụng tập quán quốc tế. Tập quán quốc tế và pháp luật
Việt Nam cùng được sử dụng để điều chỉnh thanh toán bằng thư tín dụng.
Trong trường hợp giữa tập quán quốc tế và pháp luật Việt Nam có sự khác biệt thì
pháp luật Việt Nam chiếm ưu thế và phải được tuân thủ. Quan điểm này thể hiện rõ trong
tài liệu ICC số xuất bản 511: “Do được dẫn chiếu áp dụng vào thư tín dụng, UCP chi phối
giao dịch thư tín dụng là cơ bản nhưng không phải là duy nhất. Tòa án và trọng tài thường
vận dụng UCP bởi nó là một tuyển tập các thông lệ và tập quán về thư tín dụng được phổ
biến và thông dụng nhất trên toàn thế giới. Nó được hiểu như là một văn bản đạt được sự
hoàn hảo gần với một bộ luật quốc tế. Tuy nhiên, sự áp dụng UCP và thư tín dụng không
ngăn cản việc tòa án áp dụng pháp luật quốc gia…Quan điểm của ICC là UCP không thể
thay đổi được luật quốc gia. Những tranh chấp (nếu có) tốt nhất là để tòa án xem xét và
giải quyết”.
Trên thực tế, các ngân hàng được phép thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế đều
vận dụng UCP vào giao dịch thanh toán bằng thư tín dụng nhằm hòa nhập vào mạng lưới
thanh toán toàn cầu.
2. Nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng
2.1. Chủ thể tham gia quan hệ thanh toán bằng thư tín dụng.
• Chủ thể cung ứng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng
Chủ thể cung ứng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng là chủ thể thực hiện thanh
toán bằng thự tín dụng, được thành lập và hoạt động theo Luật các Tổ chức tín dụng và các
tổ chức khác có đủ điều kiện. Điều kiện về chủ thể cung ứng dịch vụ thanh toán bằng thư
tín dụng được quy định tại Điều 1, 2, 3, 4, 5, 6 của Quy chế thanh toán qua các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán tại Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước ngày 26/3/2002. Pháp luật hiện hành không cho phép tổ chức không phải là
tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế do quy trình thanh toán quốc tế nói
chung và thanh toán bằng thư tín dụng nói riêng rất phức tạp, đòi hỏi chuyên môn nghiệp
vụ cao. Trong khi đó, hoạt động thanh toán không phải là hoạt động chính của các tổ chức
tín dụng nên mức độ rủi ro cao. Quy định này của pháp luật Việt Nam được coi là hợp lý
trong giai đoạn hiện nay.
Ngân hàng là chủ thể chủ yếu thực hiện thanh toán bằng thư tín dụng. Hiện nay ở
nước ta, hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng đều được thực hiện tại các ngân hàng
thương mại. Pháp luật quy định điều kiện ngân hàng được phép hoạt động thanh toán bằng
thư tín dụng:
- Có người điều hành, nhân viên am hiểu hoạt động ngoại hối và có khả năng thực
hiện tốt hoạt động ngoại hối.
- Có đủ trang thiết bị và điều kiện vật chất để đáp ứng được các hoạt động ngoại
hối. Đây là điều kiện rất cần thiết bởi hoạt động ngoại hối là hoạt động mang tính quốc tế,
đòi hỏi có sự đồng bộ về kỹ thuật giữa ngân hàng của các nước với nhau.
Đối với các tổ chức không phải là ngân hàng được Ngân hàng nhà nước cho phép
thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau:
- Được phép hoạt động ngoại hối theo quy định của pháp luật.
- Dịch vụ thanh toán quốc tế là cần thiết và có liên quan chặt chẽ với hoạt động
chính.
- Đáp ứng các điều kiện vật chất phù hợp với dịch vụ thanh toán quốc tế. Thanh
toán quốc tế có liên quan tới các ngân hàng ở nhiều nước khác nhau. Nó chỉ được thực
hiện khi giữa các ngân hàng có sự đồng bộ tương đối về kỹ thuật. Hiện nay, để thực hiện
được nghiệp vụ thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng các tổ chức không phải ngân hàng
cũng như ngân hàng đều phải tham gia mạng thanh toán Swift.
- Có đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ để quản lý và thực hiện
dịch vụ thanh toán quốc tế.
Để thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước, các tổ chức không phải là tổ chức tín
dụng phải đáp ứng những điều kiện:
- Có giấy phép thành lập hoặc giấy phép hoạt động hoặc đăng ký kinh doanh do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cấp;
- Có phương án hoạt động thanh toán, trong đó chứng minh:
+ Dịch vụ thanh toán xin phép thực hiện là cần thiết và có liên quan chặt chẽ với
hoạt động của mình. Đây là quy định cần thiết nhằm đảm bảo hoạt động thanh toán của tổ
chức không phải là tổ chức tín dụng được thực hiện hiệu quả, đúng mục đích.
+ Đáp ứng các điều kiện vật chất phù hợp với dịch vụ tahnh toán xin phép thực
hiện.
+ Có đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ để quản lý và thực hiện
dịch vụ thanh toán xin phép thực hiện.
Hiện nay, pháp luật nước ta chưa có quy định cụ thể về điều kiện cho các chủ thể
thực hiện thanh toán bằng thư tín dụng. Những quy định trên quy định chung về điều kiện
để chủ thể thực hiện thanh toán quốc tế. Tuy còn chung chung nhưng đã góp phần đảm bảo
hoạt động thanh toán lành mạnh, hạn chế rủi ro.
• Chủ thể sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng
Chủ thể sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng là tổ chức, cá nhân bao gồm:
người yêu cầu mở thư tín dụng và người thụ hưởng. Thông qua quy định về thủ tục thanh
toán bằng thư tín dụng tại Điều 7 Quyết định 1092/2002/QĐ-NHNN ngày 8/12/2002, điều
kiện đối với chủ thể sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng được xác định:
- Người yêu cầu mở thư tín dụng: là người mua hoặc nhà nhập khẩu, là bên mà theo
yêu cầu của bên đó, thư tín dụng được phát hành. Khi sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thư
tín dụng, người yêu cầu mở thư tín dụng cần đáp ứng điều kiện:
+ Mở tài khoản tại ngân hàng được lựa chọn.
+ Có giấy đề nghị mở thư tín dụng gửi đến ngân hàng.
- Người thụ hưởng: là người bán, người xuất khẩu, là bên mà vì quyền lợi của bên
đó, một thư tín dụng được phát hành . Để được ngân hàng thanh toán, bên thụ hưởng phải
đáp ứng điều kiện:
+ Mở tài khoản tại ngân hàng cùng hệ thống với ngân hàng mở thư tín dụng.
+ Nếu người thụ hưởng mở tài khoản tại ngân hàng khác hệ thống thì trên địa bàn
đó phải có ngân hàng cùng hệ thống hoạt động và các ngân hàng này có tham gia thanh
toán bù trừ với nhau.
Đặc biệt, để được sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng trong thanh toán
quốc tế, người yêu cầu mở thư tín dụng phải đáp ứng những điều kiện:
+ Có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp, nếu không có giấy phép này
thì đơn vị đó phải ủy thác việc mở thư tín dụng qua đơn vị khác.
+ Có giấy phép nhập khẩu hàng hóa.
Điều kiện chung đối với chủ thể sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng là có
năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
2.2. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong thanh toán bằng thư tín dụng
• Hiện nay ở nước ta vấn đề này chưa được quy định cụ thể mà chỉ dừng lại ở chỗ
quy định chung về quyền và nghĩa vụ các bên trong thanh toán tại Quyết định số
226/2002/QĐ-NHNN.
* Quyền và nghĩa vụ của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán :
- Quyền: + Quy định phí dịch vụ thanh toán đối với dịch vụ thanh toán mà mình
cung cấp, các biện pháp bảo mật, phòng chống gian lận đảm bảo an toàn trong thanh toán,
đóng tài khoản khi tài khoản không hoạt động trong thời hạn dài và số dư thấp dưới mức
quy định của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, quy định về hạn mức thấu chi và các
quy định khác không trái pháp luật.
+ Yêu cầu người sử dụng dịch vụ thanh toán cung cấp thông tin có liên quan khi sử
dụng dịch vụ thanh toán và trong quá trình sử dụng dịch vụ thanh toán.
+ Từ chối cung cấp dịch vụ thanh toán khi người sử dụng dịch vụ thanh toán không
tuân thủ quy định của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoặc vi phạm các thảo thuận
khác.
- Nghĩa vụ: + Thực hiện giao dịch thanh toán kịp thời, an toàn theo yêu cầu của
người sử dụng dịch vụ thanh toán, niêm yết công khai về phí dịch vụ, giữ bí mật các thông
tin liên quan đến tài khoản thanh toán của người sử dụng dịch vụ thanh toán, trừ các trường
hợp được pháp luật quy định, giải quyết hoặc trả lời khiếu nại của người sử dụng dịch vụ
thanh toán trong phạm vi quyề hạn của mình.
+ Từ chối thực hiện giao dịch thanh toán đã có bằng chứng về nguồn gốc bất hợp
pháp.
+ Không được che giấu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về người sử dụng dịch
vụ thanh toán, số tiền thanh toán và các thông tin có liên quan khác đối với các giao dịch
thanh toán đã có bằng chứng về nguồn gốc bất hợp pháp.
+ Cung cấp thông tin cho chủ tài khoản, báo cáo Ngân hàng Nhà nước theo quy
định.
* Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng dịch vụ thanh toán:
- Quyền: + Thỏa thuận với tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán về hạn mức thấu
chi và các thảo thuận khác không trái luật.
+ Yêu cầu tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cung cấp thông tin theo quy định
của pháp luật.
+ Khiếu nại, đòi bồi thường thiệt hại khi tổ chức cung ứng dịch vụ: thực hiện giao
dịch thanh toán chậm so với thỏa thuận, không thực hiện giao dịch thanh toán hoặc thực
hiện giao dịch thanh toán không đúng số tiền, không đúng người thụ hưởng theo yêu cầu
của lệnh thanh toán đó; thu phí dịch vụ vi phạm phí đã công bố.
- Nghĩa vụ: + Trả phí dịch vụ thanh toán cho tổ chức thanh toán; hoàn trả đầy đủ,
đúng hạn số tiền thấu chi trên tài khoản thanh toán (nếu có thỏa thuận) và tiền lãi tính trên
số tiền thấu chi đó theo quy định của tổ chức cung ứng dịch vụ và thực hiện đầy đủ các
quy định khác của tổ chức cung ứng dịch vụ.
+ Hoàn trả tổ chức cung ứng dịch vụ trong trường hợp thụ hưởng số tiền không có
căn cứ pháp luật thông qua giao dịch thanh toán do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
thực hiện.
• Những quy định trên chỉ là những quy định chung được áp dụng cho tất cả các
phương thức thanh toán. Trong khi đó, thanh toán bằng thư tín dụng có nhiều điểm
khác biệt, đặc thù so với các phương thức thanh toán khác. Nếu so với các quy định
trong UCP thì những quy định này còn sơ cài. Trong thực tiễn thanh toán bằng thư
tín dụng, quyền và nghĩa vụ của các bên được điều chỉnh bởi UCP nếu các bên thỏa
thuận áp dụng UCP. UCP 600 là bản sửa đổi mới nhất, phân định rõ trách nhiệm,
nghĩa vụ của các bên tham gia:
- Quyền và nghĩa vụ của người yêu cầu mở thư tín dụng: Có quyền lựa chọn ngân
hàng cung ứng dịch vụ, đưa ra các chỉ thị nhằm xác lập thư tín dụng, có quyền nhận, kiểm
tra và chấp nhận bộ chứng từ theo yêu cầu trong thư tín dụng; có quyền đề nghị ngân hàng
phát hành sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ thư tín dụng; có quyền từ chối thanh toán nếu phát
hiện bộ chứng từ không phù hợp với điều kiện của thư tín dụng. Người yêu cầu mở thư tín
dụng có nghĩa vụ ký quỹ, trả dịch vụ cho ngân hàng, áp dụng một hoặc nhiều biện pháp
bảo đảm: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, ký quỹ.
- Quyền và nghĩa vụ của người thụ hưởng: quyền cơ bản là được thanh toán khi
xuất trình bộ chứng từ phù hợp. Người thụ hưởng có nghĩa vụ kiểm tra thư tín dụng, lập bộ
chứng từ thanh toán phù hợp với quy định của thư tín dụng và xuất trình tới ngân hàng
được chỉ định trong thời hạn hiệu lực của thư tín dụng. Tùy theo quy định trong thư tín
dụng, người thụ hưởng có thể phải trả một khoản phí cho ngân hàng.
- Quyền và nghĩa vụ của ngân hàng phát hành:
+ Phát hành thư tín dụng theo yêu cầu của người nhập khẩu và thông qua ngân
hàng đại lý ở nước người hưởng lợi thông báo, gửi bản gốc thư tín dụng cho người thụ
hưởng.
+ Đồng ý sửa đổi, bổ sung những yêu cầu của người yêu cầu mở thư tín dụng.
+ Kiểm tra chứng từ của người hưởng lợi thư tín dụng chuyển đến. Nếu các chứng
từ phù hợp với những điều kiện quy định trong thư tín dụng thì trả tiền cho người hưởng
lợi và đòi tiền nhà nhập khẩu. Nếu các chứng từ xuất trình không phù hợp thì từ chối thanh
toán .
+ Được miễn trách nhiệm trả tiền hoặc các hoạt động nghiệp vụ khác có liên quan
đến vận hành thư tín dụng trong trường hợp hoạt động của ngân hàng bị dừng lại do các
nguyên nhân bất khả kháng: chiến tranh, đình công, khủng bố, thiên tai hoặc các nguyên
nhân khác vượt ngoài sự kiểm soát của ngân hàng phát hành. Mọi hậu quả phát sinh do lỗi
của mình, ngân hàng phát hành phải chịu trách nhiệm.
+ Được hưởng phí mở thư tín dụng.
- Quyền và nghĩa vụ của ngân hàng thông báo: Khi nhận được thư tín dụng chuyển
đến bởi ngân hàng phát hành, ngân hàng thông bảo phải xác minh tính chân thực của thư
tín dụng trước khi thông báo cho nhà xuất khẩu. Khi tiến hành thông báo, phải chuyển
chính xác và đầy đủ các điều kiện và điều khoản của thư tín dụng hoặc sửa đổi đã nhận
được cho người thụ hưởng. Nếu từ chối thông báo thì phải thông báo không chậm trễ cho
ngân hàng mà từ đó đã nhận được thư tín dụng. Khi nhận được bộ chứng từ do người bán
xuất trình, ngân hàng thông báo phải kiểm tra, chuyển ngay và nguyên vẹn bộ chứng từ đó
tới ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng được chỉ định thanh toán.
- Quyền và nghĩa vụ của ngân hàng xác nhận: kể từ thời điểm xác nhận thư tín
dụng, ngân hàng xác nhận bị ràng buộc không hủy ngang với việc thanh toán hoặc chiết
khấu. Nếu thư tín dụng quy định chứng từ xuất trình đến ngân hàng xác nhận hoặc đến bất
kỳ ngân hàng được chỉ định nào khác và xuất trình là phù hợp thì ngân hàng xác nhận phải
thanh toán hoặc chiết khấu miễn truy đòi nếu thư tín dụng đáp ứng đủ điều kiện thanh toán.
2.3. Thủ tục thanh toán bằng thư tín dụng
• Theo pháp luật Việt Nam:
Thủ tục thanh toán bằng thư tín dụng được quy định tại Điều 7 của Quyết định số
1092/2002/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 8/10/2002:
- Bước 1: Bên trả tiền khi có nhu cầu thanh toán bằng thư tín dụng lập giấy mở thư
tín dụng nộp vào ngân hàng phục vụ mình theo mẫu do ngân hàng quy định.
- Bước 2: Ngân hàng phục vụ người trả tiền kiểm tra xem xét tính hợp lệ của đơn
xin mở thư tín dụng và quyết định chấp nhận hay từ chối mở thư tín dụng. Nếu không mở
thư tín dụng, ngân hàng phải hoàn trả lại cho khách hàng giấy tờ và kèm theo văn bản trả
lời ghi rõ lý do từ chối mở. Nếu đồng ý mở, ngân hàng xử lý giấy mở thư tín dụng:
+ Một liên giấy mở thư tín dụng làm chứng từ hạch toán tại ngân hàng phục vụ
người trả tiền.
+ Một liên giấy mở thư tín dụng làm giáy báo nợ gửi người trả tiền.
+ Hai liên giấy mở thư tín dụng gửi đến ngân hàng phục vụ người thụ hưởng.
Sau khi mở thư tín dụng, ngân hàng mở thư tín dụng phải gửi ngay thông báo về
thư tín dụng cho ngân hàng phục vụ người thụ hưởng để thông báo cho người thụ hưởng
để thông báo cho người thụ hưởng.
- Bước 3: Ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng sau khi nhận được giấy mở thư tín
dụng do ngân hàng mở gửi đến thì tiến hành kiểm tra thủ tục mở thư tín dụng và thông báo
cho người thụ hưởng biết.
- Bước 4: Bên thụ hưởng sau khi nhận được giấy mở thư tín dụng của bên trả tiền
do ngân hàng mình gửi đến, người thụ hưởng phải đối chiếu với hợp đồng hay đơn đặt
hàng nếu đúng thì giao hàng và yêu cầu người nhận hàng ký vào hóa đơn hay chứng từ
giao hàng. Căn cứ vào hóa đơn, chứng từ giao hàng, người thụ hưởng lập 4 liên bảng kê
hóa đơn chứng từ giao hàng theo mẫu nộp vào ngân hàng phục vụ mình để thanh toán tiền
bán hàng.
- Bước 5: Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng kiểm tra chứng từ, nếu phù hợp thì
thanh toán cho người thụ hưởng.
- Bước 6: Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng gửi hóa đơn chứng từ giao hàng
đến ngân hàng mở để được thanh toán .
- Bước 7: Ngân hàng phục vụ bên trả tiền tất toán thư tín dụng.
Thủ tục thanh toán trên chỉ áp dụng đối với thanh toán bằng thư tín dụng trong
nước, áp dụng cho phương thức thanh toán trả tiền ngay, bộ chứng từ đòi tiền không kèm
hối phiếu .Quy trình này cón nhiều hạn chế so với tập quán và thông lệ quốc tế. Với thanh
toán nội địa thì quy trình này phức tạp, chậm hơn so với những phương thức thanh toán
khác, làm vốn bị ứ đọng. Vì vậy, người có nhu cầu sử dụng dịch vụ thanh toán sẽ lựa chọn
phương tiện thanh toán hiệu quả hơn.
• Thủ tục của UCP trong thanh toán quốc tế
- Bước 1: Người nhập khẩu viết giấy yêu cầu mở thư tín dụng gửi đến ngân hàng
của mình yêu cầu mở thư tín dụng cho người xuất khẩu hưởng.
- Bước 2: Căn cứ vào đơn xin mở thư tín dụng, ngân hàng phát hành thư tín dụng
sẽ lập một thư tín dụng và thông báo ngân hàng đại lý của mình ở nước người xuất khẩu
thông báo việc mở thư tín dụng và chuyển thư tín dụng đến người xuất khẩu.
- Bước 3: Khi nhận được thông báo này, ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho
người xuất khẩu toàn bộ nội dung thông báo về việc mở thư tín dụng đó và khi nhận được
bản gốc thư tín dụng thì chuyển ngay cho người xuất khẩu.
- Bước 4: Người xuất khẩu nhận được thư tín dụng do ngân hàng thông báo gửi
đến, tiến hành kiểm tra, dịch thuật, đối chiếu với hợp đồng mua bán hàng hóa đã ký trước
đây. Sau khi kiểm tra thư tín dụng, nếu đồng ý thì tiến hành giao hàng cho bên nhập khẩu,
nếu không đồng ý thì đề nghị bên nhập khẩu điều chỉnh hoặc bổ sung them cho đến khi
hoàn chỉnh mới giao hàng.
- Bước 5: Sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ
thanh toán phù hợp với điều khoản trong thư tín dụng, xuất trình cho ngân hàng được chỉ
định để yêu cầu thanh toán.
- Bước 6: Khi ngân hàng thông báo nhận được chứng từ cùng bản gốc thư tín dụng
do nhà xuất khẩu gửi đến (kèm các tu chỉnh nếu có), ngân hàng thông báo kiểm tra nội
dung thư tín dụng và các chứng từ kèm theo, sau đó điện báo cho ngân hàng phát hành thư
tín dụng hoặc ngân hàng xác nhận (nếu có).
- Bước 7: Ngân hàng mở thư tín dụng nhận được bộ chứng từ thanh toán do bên
xuất khẩu gửi đến tiến hành kiểm tra, đối chiếu với những điều khoản quy định trong thư
tín dụng đã mở. Nếu phù hợp, ngân hàng mở thư tín dụng sẽ thanh toán cho người xuất
khẩu.
- Bước 8: Nhận được điện báo có về tài khoản thanh toán ở bộ chứng từ hàng xuất
khẩu, ngân hàng thông báo báo có cho người xuất khẩu hoặc thông báo hối phiếu có kỳ
hạn đã được chấp nhận thanh toán. Trong trường hợp ngân hàng phát hành từ chối thanh
toán thì ngân hàng thông báo phải thông báo ngay cho người xuất khẩu.
- Bước 9: Ngân hàng mở thư tín dụng yêu cầu người xin mở thư tín dụng thanh
toán và chuyển bộ chứng từ cho người xin mở (người nhập khẩu). Nếu tổ chức nhập khẩu
từ chối thanh toán thì tùy từng trường hợp mà ngân hàng mở thư tín dụng giải quyết trên
cơ sở pháp lý là giấy yêu cầu mở thư tín dụng.
Quy trình thanh toán theo UCP có tính chặt chẽ hơn so với pháp luật Việt Nam. Ở
mỗi khâu, quyền và nghĩa vụ các bên đều rất rõ ràng.
III. Thực tiễn áp dụng pháp luật và một số kiến nghị
• Thực tiễn áp dụng
1.1. Đánh giá chung:
Ở nước ta thanh toán bằng thư tín dụng đang có xu hướng phát triển. Việc cung cấp
dịch vụ thanh toán quốc tế bằng phương thức này đang là hoạt động chủ yếu của Phòng
thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại. Phần lớn các doanh nghiệp ở nước ta
đều có quy mô vừa và nhỏ so với các doanh nghiệp trên thế giới, tính minh bạch về tài
chính còn hạn chế nên trong quan hệ thanh toán quốc tế, lựa chọn phương thức thanh toán
bằng thư tín dụng là giải pháp tốt nhất để đảm bảo quyền lợi các bên. Tuy nhiên việc áp
dụng pháp luật điều chỉnh hoạt động này đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết.
Trước hết nghiệp vụ thanh toán quốc tế của hệ thống ngân hàng thương mại ở nước
ta còn nhiều hạn chế. Năng lực quản lý kém là nguyên nhân dẫn tới những vụ tham nhũng
và lừa đảo. Năng lực kiểm tra xử lý bộ chứng từ thanh toán hạn chế làm phát sinh nhiều
tranh chấp gây thiệt hại cho các bên Việt Nam. Việc không phát hiện được những sai biệt
của chứng từ và không thông báo những sai biệt, từ chối bộ chứng từ sau thời hạn kiểm tra
chứng từ đã hết, thông báo sửa đổi thư tin dụng không tuân thủ nguyên tắc của UCP… rất
thường xảy ra ở các ngân hàng Việt Nam. Sự non yếu về nghiệp vụ đã dẫn đến không ít
tranh chấp. Việc mở thư tín dụng phát sinh nhiều bất cập và tồn tại.
Bên cạnh đó, thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín
dụng còn tồn tại rất nhiều bất cập. Quy định về thanh toán bằng thư tín dụng rất chung
chung, nằm ở nhiều văn bản khác nhau với giá trị hiệu lực khác nhau và không phù hợp
với thông lệ và tập quán quốc tế. Không có văn bản pháp luật riêng điều chỉnh lĩnh vực
này. Những văn bản có quy định về thư tín dụng cũng chỉ dừng lại ở chỗ đưa ra định nghĩa
về thư tín dụng. Nhiều vấn đề quan trọng chưa được quy định rõ ràng. Thiếu hành lang
pháp lý làm cơ sở cho hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng đã khiến cho việc áp dụng
pháp luật trong lĩnh vực này trở nên khó khắn, gây trở ngại cho các bên trong giao dịch.
Nhiều tranh chấp các hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng phát sinh đòi hỏi pháp luật
phải có sự điều chỉnh kịp thời và hợp lý.
Rõ ràng thực trạng này đang đặt ra nhiều vấn đề pháp lý cần giải quyết để hạn chế
những tranh chấp phát sinh cũng như đảm bảo tính hiệu quả của phương thức thanh toán
bằng thư tín dụng.
1.2. Các tranh chấp chủ yếu liên quan đến thư tín dụng:
Mặc dù phương thức thanh toán bằng thư tín dụng có nhiều ưu điểm, đảm bảo
quyền lợi của các bên nhưng trong thực tiễn vẫn phát sinh nhiều tranh chấp. Khá nhiều
ngân hàng và doanh nghiệp Việt Nam lung túng trong việc giải quyết những tranh chấp đó
nên đã chịu phần thiệt hại về mình. Tranh chấp thư tín dụng xảy ra khi quyền lợi của một
hoặc các bên tham gia bị vi phạm. Có nhiều loại tranh chấp liên quan đến thư tín dụng như
sau:
- Tranh chấp giữa ngân hàng và người yêu cầu mở thư tín dụng.
- Tranh chấp giữa ngân hàng và người thụ hưởng.
- Tranh chấp giữa các ngân hàng với nhau.
- Tranh chấp giữa người yêu cầu mở thư tín dụng và người thụ hưởng.
Dưới đây là một số tranh chấp chủ yếu xảy ra trên thực tế ở Việt Nam trong thời
gian qua:
- Tranh chấp phát sinh trong trường hợp người nhập khẩu không mở thư tín
dụng đúng hạn
Trong phương thức thanh toán bằng thư tín dụng, nghĩa vụ của người mua là mở
thư tín dụng theo đúng quy định trong hợp đồng mua bán nhưng trên thực tế, vì rất nhiều
nguyên nhân mà nghĩa vụ này thường xuyên bị vi phạm làm phát sinh nhiều tranh chấp
phức tạp. Nguyên nhân có thể là do thời hạn mở thư tín dụng là quá ngắn, nếu người mua
không có khả năng tài chính thì rất dễ rơi vào tình trạng không mở được thư tín dụng hoặc
mở thư tín dụng quá hạn. Cũng có thể là nguyên nhân liên quan đến hiệu quả thu được từ
hợp đồng mang lại cao hay thấp, có hay không. Bên canh đó, cũng do năng lực của một số
doanh nghiệp hạn chế, ký hợp đồng có nhiều kẽ hở mà nếu tiếp tục mở thư tín dụng sẽ dẫn
đến những tổn thất nhất định cho doanh nghiệp. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã
thoái thác trách nhiệm, không mở thư tín dụng đúng như cam kết dẫn đến tranh chấp phát
sinh.
- Tranh chấp phát sinh trong trường hợp người xuất khẩu xuất trình bộ chững
từ có sai biệt so với quy định của thư tín dụng
Nguyên tắc cơ bản trong thanh toán thư tín dụng là tất cả các bên liên quan chỉ giao
dịch căn cứ vào chứng từ. Để được thanh toán, nghĩa vụ của người hưởng lợi là phải lập và
xuất trình bộ chứng từ đòi tiền phù hợp quy định trong thư tín dụng cho ngân hàng phát
hành hoặc ngân hàng xác nhận thư tín dụng. Trong rất nhiều trường hợp người hưởng lợi
không thực hiện đúng nghĩa vụ này đã làm phát sinh tranh chấp ảnh hưởng đến quyền lợi
của chính người hưởng lợi cũng như ngân hàng trả tiền.
- Tranh chấp phát sinh trong trường hợp người bán không lấy được loại
chứng từ thanh toán phù hợp
Tranh chấp này phát sinh chủ do hạn chế về khả năng đàm phán cũng cũng như
thiếu kinh nghiệm mà người bán đã chấp nhận một thư tín dụng trong đó yêu cầu một hoặc
một số loại chứng từ rất khó có khả năng lấy được. Như vậy, người bán phải chắc chắn
không có 1 chứng từ nào từ phía người mua cung cấp lại phải chịu tác động của yếu tố
khác nằm ngoài tầm kiểm soát của người bán.
- Tranh chấp phát sinh trong trường hợp ngân hàng phát hành từ chối trả tiền
sau thời hạn kiểm tra chứng từ đã hết
Quy định về thời hạn kiểm tra chứng từ là một bước tiến bộ của UCP 500 so với
các bản UCP trước. Theo UCP 500, thời hạn kiểm tra chứng từ là không quá 7 ngày làm
việc của ngân hàng kể từ ngày tiếp theo ngày nhận được bộ chứng từ. UCP 600 chỉ quy
định cho thời hạn này là 5 ngày. Trên thực tế, nhiều ngân hàng khi thực hiện nghiệp vụ đã
vi phạm thời hạn này, làm phát sinh những tranh chấp không đáng có. Cụ thể, điều 14 UCP
500 quy định: “Nếu ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng xác nhận quyết định từ chối
thanh toán thì phải thông báo không chậm trễ bằng điện, nếu có thể, bằng phương tiện
truyền tin nhanh nhất, nhưng không được chậm quá 7 ngày làm việc của ngân hàng kể từ
ngày chứng từ được chuyển đến”. Điều 14b UCP 600 quy định: “Ngân hàng được chỉ định,
ngân hàng xác nhận, nếu có, và ngân hàng phát hành sẽ có tối đa mỗi ngân hàng là 5 ngày
làm việc tiếp theo ngày xuất trình chứng từ để xác định chứng từ xuất trình có hợp lệ hay
không”.
- Tranh chấp phát sinh trong trường hợp ngân hàng phát hành nắm giữ vận
đơn nhưng vẫn không nhận được hàng
Chức năng quan trọng nhất của vận đơn là vận đơn là bằng chứng về việc giao
hàng và sở hữu hàng hóa. Vận đơn được lập theo lệnh thì bất cứ ai xuất trình một trong các
bản vận đơn gốc sau khi kí hậu cũng được quyền nhận hàng hóa. Vận đơn lập theo lệnh
của ngân hàng thì ngân hàng phải kí hậu thì người xuất trình vận đơn mới được quyền
nhận hàng. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, các bên tham gia thanh toán bằng thư tín
dụng đã không hiểu và thực hiện đúng vấn đề này và làm phát sinh tranh chấp.
Như vậy, để đảm bảo tính pháp lý cho ngân hàng phát hành được toàn quyền định
đoạt hàng hóa khi người mở không thực hiện nghĩa vụ của mình, giữa ngân hàng phát hành
và người mở cần có một thỏa thuận bằng văn bản, trong đó cho phép ngân hàng được nhận
hàng hóa bán cho phía bên thứ ba để hoàn trả lại số tiền họ đã thanh toán theo thư tín dụng
khi người mở mất khả năng chi trả. Tuy nhiên, thỏa thuận này phải được pháp luật quốc
gia chấp nhận.
- Tranh chấp do ngân hàng thông báo sửa đổi thư tín dụng không tuân thủ
triệt để quy định của UCP
Trách nhiệm của ngân hàng thông báo là thông báo thư tín dụng cho người bán,
chuyển các chứng từ liên quan đến sửa đổi, bổ sung thư tín dụng, chuyển bộ chứng từ
thanh toán của người bán tới ngân hàng phát hành để được thanh toán. Tuy nhiên, trong
nhiều trường hợp, ngân hàng thống báo đã hành động không đúng với thông lệ và tập quán
quốc tế dẫn đến các tranh chấp phát sinh.
Trên đây la những tranh chấp chủ yếu liên quan đến thư tín dụng. Thực tế, còn rất
nhiều dạng tranh chấp khác như: ngân hàng mở thư tín dụng không đúng yêu với yêu cầu
trong đơn xin mở thư tín dụng, ngân hàng không cầm giữ chứng từ chờ sự định đoạt của
người bán, ngân hàng thông báo thống báo một thư tín dụng thiếu tính chân thật bề
ngoài…
1.3. Những nguyên nhân cơ bản làm phát sinh tranh chấp.
Các tranh chấp xảy ra trong thanh toán bằng thư tín dụng phát sinh từ nhiều nguyên
nhân khác nhau. Việc xem xét, phân tích kỹ các nguyên nhân tranh chấp là cơ sở giúp hạn
chế, phòng tránh và xử lý một cách có hiệu quả. Những nguyên nhân cơ bản làm phát sinh
tranh chấp:
Thứ nhất, quy trình, thủ tục thanh toán bằng thư tín dụng phức tạp. Xuất phát từ
mục đích bảo đảm quyền lợi cho các bên tham gia nên thủ tục thanh toán bằng thư tín dụng
bao gồm nhiều khâu đòi hỏi sự chặt chẽ và cẩn trọng. Cũng chính vì vậy mà các tranh chấp
dễ dàng phát sinh nếu các bên không thận trọng và thiếu thiện chí. Tranh chấp có thể phát
sinh ở bất cứ khâu nào của thủ tục thanh toán bằng thư tín dụng. Hơn nữa, trong thanh toán
bằng thư tín dụng có sự tham gia của rất nhiều chủ thể với quyền lợi và nghĩa vụ khác nhau
nên các tranh chấp phát sinh rất đa dạng.
Thứ hai, điều khoản thư tín dụng không chặt chẽ. Đây được coi là một trong
những nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh tranh chấp trong thanh toán bằng thư tín dụng ở
Việt nam. Bản thân thư tín dụng đã bao gồm rất nhiều điều khoản phức tạp cộng với trình
độ nghiệp vụ mà đặc biệt là trình độ ngoại ngữ còn hạn chế dẫn đến việc soạn thảo các
điều khoản trong đơn xin mở thư tín dụng không đầy đủ gây ra bất đồng và tranh chấp phát
sinh.
Thứ ba, nhận thức và vận dụng UCP của các chủ thể tham gia quy trình thanh
toán bằng thư tín dụng còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp không nắm vững thông lệ quốc tế
về thanh toán bằng thư tín dụng nên dễ dàng chấp nhận các điều kiện bất lợi của thư tín
dụng, thực hiện không đúng những quy định của thư tín dụng và không lập nổi bộ chứng từ
hoàn hảo. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng chưa được đào tạo về nghiệp vụ ngoại
thương nên rất dễ mắc vào những sai lầm không đáng có. Đặc biệt, việc nhận thức và vận
dụng UCP tại các ngân hàng cũng còn nhiều hạn chế. Một số nhân viên ngân hàng không
những không am hiểu về UCP mà còn thiếu nghiêm túc trong việc chấp hành quy trình
nghiệp vụ ngân hàng.
Thứ tư, nguồn luật điều chỉnh hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng phức tạp và
không thống nhất. Trong phương thức thanh toán bằng thư tín dụng có liên quan đến nhiều
mối quan hệ giữa các chủ thể khác nhau: mối quan hệ giữa người mua và người bán, giữa
người xin mở thư tín dụng và ngân hàng phát hành, giữa ngân hàng phát hành và người bán
trong cam kết trả tiền của ngân hàng. Mỗi quan hệ lại chịu sự điều chỉnh của các chế định
luật khác nhau. Vì vậy, nếu các bên không có sự chuẩn bị kỹ và nghiên cứu các yếu tố liên
quan đến việc thực hiện hợp đồng, thực hiện thư tín dụng thì các tranh chấp rất dễ phát
sinh.
2. Một số kiến nghị
2.1. Xây dựng văn bản pháp luật riêng về thanh toán bằng thư tín dụng
Cho đến nay, lĩnh vực thanh toán bằng thư tín dụng vẫn chưa có văn bản riêng điều
chỉnh. Các văn bản hiện hành có giá trị pháp lý điều chỉnh hoạt động này đã trở nên quá lạc
hậu, không theo kịp những đòi hỏi thực tiến đang đặt ra. VÌ vậy, xây dựng văn bản pháp
luật mới phù hợp với thực tiễn hoạt động này tại Việt Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế
là định hướng cơ bản để hoàn thiện pháp luật điều chỉnh lĩnh vực thanh toán này. Việc xây
dựng văn bản pháp luật mới có thể thực hiện theo hướng: ban hành quy chế thanh toán
bằng thư tín dụng. Đây là bước đầu tiên để hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động
thanh toán bằng thư tín dụng. Nồi dung quy chế thanh toán bằng thư tín dụng có thế gồm
các vấn đề sau:
- Những quy định chung: gồm các điều khoản về định nghĩa thư tín dụng; đối
tượng hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng; điều khoản các giải thích các thuật ngữ liên
quan như: ngân hàng thông báo, ngân hàng phát hành, ngân hàng chiết khấu, ngân hàng
xác nhận…; điều khoản về luật áp dụng.
- Những quy định về điều kiện thực hiện nghiệp vụ thanh toán bằng thư tín dụng.
Những quy định này phải cụ thể đối với từng chủ thể tham gia thanh toán bằng thư tín
dụng: chủ thể cung ứng dịch vụ thanh toán và chủ thể sử dụng dịch vụ thanh toán bằng thư
tín dụng.
- Quy định về thủ tục thực hiện các giao dịch thanh toán bằng thư tín dụng. Thủ tục
thanh toán bằng thư tín dụng phải được xậy dựng phù hợp với với thông lệ và tập quán
quốc tết, đảm bảo quy trình thanh toán hiệu quả và hạn chế rủi ro.
- Những quy định về các biện pháp bảo đảm: ký quỹ, cầm cố, thế chấp, bảo đảm.
- Những quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong thanh toán bằng thư tín
dụng.
- Những quy định về vi phạm và xử lý vi phạm.
Như vậy, việc xây dựng quy chế thanh toán bằng thư tín dụng phải đảm bảo phù
hợp với các quy định pháp luật Việt Nam có liên quan như: luật các tổ chức tín dụng, luật
thương mại, pháp lệnh ngoại hối, luật các công cụ chuyển nhượng, luật hải quan…Đồng
thời phải phù hợp với thông lệ và tập quán quốc tế như: UCP, ISBP…
Bên cạnh đó cần có các quy định cụ thể tạo sự thống nhất về pháp lý cho những
giao dịch giữa ngân hàng và khách hàng trong quan hệ giao dịch chứng từ. Thực tế các
khách hàng đến ngân hàng yêu cầu mở thư tín dụng đều không có văn bản pháp luật có
tính chất hợp đồng được thỏa thuận bằng văn bản. Hầu hết các ngân hàng chỉ quy định
những loại giấy tờ như: đơn yêu cầu mở thư tín dụng, giấy cam kết thanh toán, đơn xin bảo
lãnh ngân hàng và ký hậu vận đơn, thông báo thư tín dụng, đơn xin chiết khấu chứng từ…
Các chứng từ này có tính chất là những giao dịch ngân hàng, không thể hiện được tính chất
pháp lý và ràng buộc giữa các bên nên khi giải quyết tranh chấp sẽ gặp nhiều khó khăn.
2.2. Tăng cường tính cưỡng chế của các phán quyết.
Các phán quyết của trọng tài hoặc tòa án dựa trên UCP 600 phải được các bên Việt
Nam tuân thủ và thực hiện. Ở Việt Nam hiện nay có một thực trạng là với quá trình tham
gia vào hội nhập kinh tế, trong quan hệ với các nước ngoài, các bên Việt Nam thường phải
hành động theo thông lệ quốc tế. Thế nhưng quan hệ giữa các bên trong nước, luật pháp
chưa thực sự đảm bảo quyền lợi cho các bên và tính cưỡng chế còn thấp. Chính sự không
đồng bộ trong mức độ phát triện và luật pháp trong nước và luật pháp quốc tế là một
nguyên nhân gây ra tranh chấp giữa các bên.
2.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng.
Ở Việt Nam hiện nay, khi sử dụng các dịch vụ ngân hàng, các doanh nghiệp thường
có xu hướng ỷ lại vào ngân hàng trong việc tìm hiểu pháp luật quốc tế về tín dụng chứng từ
và điều này dẫn đến những tranh chấp. Chẳng hạn một số doanh nghiệp xuất khẩu khi nhận
được thông báo thư tín dụng từ ngân hàng thông báo do không kiểm tra kỹ nội dung thư tín
dụng nên kết quả là nội dung thư tín dụng có thể không thống nhất với hợp đồng, hoặc thư
tín dụng chưa được kiểm tra tính xác thực mà doanh nghiệp đã chuẩn bị giao hàng. Các
doanh nghiệp xuất khẩu nhiều khi lại cho rằng dùng thư tín dụng là đảm bảo nhận được
hàng đúng như hợp đồng. Nhìn chung kiến thức và kinh nghiệm sử dụng phương thức tín
dụng chứng từ của các doanh nghiệp còn yếu. Bên cạnh đó, nghiệp vụ về thanh toán bằng
thư tín dụng của ngân hàng còn nhiều hạn chế.
Với thực trạng như vậy, cần phổ cập các kiến thức liên quan đến phương thức tín
dụng chứng từ cho doanh nghiệp và các ngân hàng thương mại:
- Các kiến thức chung về xuất nhập khẩu.
- Luật pháp Việt Nam liên quan đến thanh toán với nước ngoài: Luật thương mại
Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng, Pháp lệnh về ngoại hối, Luật các công cụ chuyển
nhượng, …
- Các tập quán quốc tế về thanh toán bằng thư tín dụng: UCP…
- Luật pháp các quốc gia khác liên quan đến thanh toán bằng thư tín dụng: Điều 5
UCC của Mỹ…
- Nội dung xung đột giữa pháp luật Việt Nam, luật các quốc gia khác và tập quán
quốc tế về phương thức thanh toán bằng thư tín dụng và cách giải quyết
KẾT LUẬN
Trên đây là phần trình bày của nhóm chúng tôi về pháp luật điều chỉnh hoạt động
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét