Thứ Ba, 25 tháng 2, 2014

PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐTPT HUYỆN TAM NÔNG

hành theo dự toán đã được duyệt đáp ứng nhu cầu hoạt động của các đơn vị dự toán và
các xã, thị trấn.
Tổ chức công tác thẩm định và xét duyệt quyết toán quý, năm cho các đơn vị và các
xã, thị trấn theo đúng quy định của luật ngân sách. Duy trì chế độ giao ban quý đối với
các xã, thị trấn. Phối hợp với sở Tài chính tổ chức tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ kế
toán máy các xã, thị trấn.
Phối hợp với Thanh tra sở Tài chính thanh tra công tác ngân sách xã Quang Húc,
Hùng Đô, Dị Nậu, Hương Nộn, Hùng Đô; thanh tra ngân sách các đơn vị dự toán sự
nghiệp giáo dục và các đơn vị dự toán trên địa bàn huyện.
Phối hợp với Uỷ ban kiểm tra Huyện uỷ kiểm tra việc thanh lý tài sản và tiền thu
hoa lợi công sản tại các xã.
Phối hợp với Thanh tra huyện thanh tra công tác ngân sách xã , giải quyết đơn khiếu
nại , thanh tra ngân sách các đơn vị dự toán sự nghiệp giáo dục
1.1.3.2. Về công tác đăng ký kinh doanh- công tác kế hoạch và đầu tư
Thẩm định và cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh cho các tổ chức và cá nhân đảm
bảo đúng quy định, kịp thời.
Tham mưu cho UBND huyện trong công tác xây dựng kế hoạch, giao kế hoạch và
tổ chức chỉ đạo triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội theo Nghị quyết
của HĐND huyện và tỉnh giao.
Thường xuyên theo dõi tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch về phát triển kinh
tế - xã hội của các xã, thị trấn các cơ quan đơn vị để tham mưu cho UBND huyện trong
việc chỉ đạo điều hành và tổ chức thực hiện do đó các chỉ tiêu KT - XH đều đảm bảo
hoàn thành và hoàn thành vượt mức so với kế hoạch.
Tổ chức thực hiện tốt công tác tham mưu cho UBND huyện trong công tác đầu tư
xây dựng. Thẩm định và trình duyệt các hạng mục công trình đầu tư XDCB trên địa
bàn.
Đánh giá, giám sát đầu tư, hướng dẫn các chủ đầu tư thực hiện đầy đủ các trình tự
thủ tục theo quy định về đầu tư XDCB.Thẩm định nguồn vốn đầu tư trước khi có chủ
trương đầu tư các công trình trên địa bàn, do đó các công trình đầu tư trên địa bàn đều
đảm bảo nguồn vốn thanh toán.
Đặng Quốc Việt - Đầu tư 47
C
Thẩm định quyết toán vốn đầu tư các công trình XDCB hoàn thành trình UBND
huyện phê duyệt kịp thời theo đúng quy định của Nhà nước.
Thực hành tiết kiệm, tránh lãng phí trong đầu tư XDCB. Tranh thủ các nguồn vốn
đầu tư của cấp trên, tiết kiệm chi thường xuyên để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất do
vậy cơ sở vật chất trên địa bàn huyện ngày càng được tăng cường.
Phối hợp với các phòng liên quan và UBND các xã, thị trấn đẩy mạnh công tác đấu
giá quyền sử dụng đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong năm đã tổ chức 8
phiên đấu giá tại các xã, thị trấn.
Tham gia Hội đồng định giá tài sản theo yêu cầu của UBND huyện và các ngành
liên quan theo chức năng và nhiệm vụ của phòng.
Tham gia thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng xây dựng các công
trình đảm bảo đúng trình tự, thủ tục quy định. Thực hiện công tác thẩm định và trình
duyệt kinh phí bồi thường giải phóng mặt bằng đảm bảo đúng chế độ, chính sách, tổ
chức chi trả đầy đủ, kịp thời. Tham mưu cho UBND huyện giải quyết kịp những kiến
nghị, thắc mắc của dân trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng do vậy trong
năm không có khiếu kiện phức tạp về công tác BTGPMB.
1.1.3.3. Công tác giám sát, đánh giá đầu tư
Về cơ chế quản lý đầu tư: tổ chức quản lý tăng cường phân cấp, ủy quyền trong
quản lý đầu tư, giám sát trực tiếp hoạt động của chủ đầu tư, các cơ quan, đơn vị, xã, thị
trấn, gắn với việc quản lý, sử dụng tài sản sau đầu tư. Về bố trí kế hoạch: tiến hành xây
dựng kế hoạch, danh mục đầu tư từ các nguồn vốn tập trung , các dự án, công trình thiết
yếu; bố trí các dự án quan trọng như xây dựng cơ sở hạ tầng trường học, trạm y tế, nhà
trẻ, nhà mẫu giáo. Việc bố trí danh mục đầu tư đảm bảo yêu cầu, không dàn trải.
Công tác chuẩn bị đầu tư: đóng góp xây dựng quy hoạch ngành, quy hoạch địa
phương, trực tiếp lập những dự án cần thiết.
Công tác thực hiện đầu tư: tổng hợp báo cáo các đơn vị thực hiện đầu tư, thực hiện
đánh giá tiến độ, phát hiện những sai phạm vướng mắc trong quá trình đầu tư, tổ chức
các đoàn giám sát hoạt động đầu tư, kịp thời trình lên UBND huyện. Tiến hành đánh giá
hiệu quả các dự án sau khi được đưa vào hoạt động; tiến hành tổng kết rút kinh
nghiệm.
Đặng Quốc Việt - Đầu tư 47
C
Nhìn chung dưới sự chỉ đạo, giám sát quản lý của UBND huyện công tác giám sát,
đánh giá đầu tư đã được thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, Chủ tịch UBND xã, thị trấn
quan tâm hơn, do vậy công tác giám sát, đánh giá đầu tư đã có những chuyển biến tích
cực. Tại các cơ quan, đơn vị xã, thị trấn đã thành lập các đơn vị đầu mối hoặc giao
nhiệm vụ cho các bộ phận thực hiện công tác này. Một số đơn vị đã ban hành các quy
định cụ thể về việc thực hiện công tác giám sát, đánh giá đầu tư ở địa phương mình.
Hoạt động giám sát, đánh giá đầu tư của các cơ quan, đơn vị, xã, thị trấn đang dần đi
vào nề nếp.
Tiến hành công tác bồi dưỡng cán bộ ở các đơn vị, các xã. Đối với cấp huyện, ngoài
việc cử cán bộ tham dự các lớp tập huấn do tỉnh tổ chức; huyện còn tự tổ chức các lớp
bồi dưỡng nghiệp vụ và phổ biến kịp thời các quy định mới về quản lý đầu tư và xây
dựng.
1.2 ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN HUYỆN TAM NÔNG - TỈNH PHÚ THỌ
1.2.1 Vị trí địa lý
Tam Nông là một huyện miền núi, nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Phú Thọ; có toạ
độ địa lý 21013’ đến 21024’ vĩ Bắc và từ 105009’ đến 105021’ kinh Đông. Địa giới
hành chính của huyện như sau:
Phía Bắc giáp Thị xã Phú Thọ, với ranh giới tự nhiên là phân thuỷ giữa sông Thao.
Phía Tây Bắc giáp huyện Thanh Ba, với ranh giới tự nhiên là sông Thao.
Phía Nam giáp huyện Thanh Thuỷ và Thanh Sơn.
Phía Đông Nam giáp huyện Ba Vì (nay là Hà Nội) ranh giới tự nhiên là sông Đà
Phía Đông Bắc giáp huyện Lâm Thao với ranh giới là phân thuỷ giữa sông Thao.
Phía Tây giáp huyện Cẩm Khê và huyện Yên Lập.
Huyện có vị trí khá thuận lợi trong phát triển kinh tế - xã hội vì gần tỉnh Việt Trì, thị
xã Phú Thọ; Có hệ thống giao thông đường bộ, đường thuỷ thuận tiện nối liền với các
tỉnh miền núi phía Bắc và Thủ đô Tỉnh, là đầu mối giao thông quan trọng trong việc
trung chuyển hàng hoá và nối liền hệ thống kinh tế giữa các tỉnh Trung du miền núi Bắc
Bộ với Tỉnh Tỉnh.
Huyện có diện tích tự nhiên 15.596,92 ha, chiếm 4,43% diện tích tự nhiên của tỉnh
Phú Thọ. Huyện lỵ đặt tại Thị trấn Hưng Hoá. Toàn huyện có 20 đơn vị hành chính,
trong đó có 19 xã và 1 thị trấn: Vực Trường, Hiền Quan, Hương Nha, Xuân Quang,
Đặng Quốc Việt - Đầu tư 47
C
Thanh Uyên, Tam Cường, Văn Lương, Tứ Mỹ, Phương Thịnh, Hùng Đô, Quang Húc,
Tề Lễ, Cổ Tiết, Hương Nộn, Dị Nậu, Thọ Văn, Dậu Dương, Thượng Nông, Hồng Đà
và thị trấn Hưng Hoá.
1.2.2 Tài nguyên thiên nhiên
1.2.2.1 Tài nguyên đất
Địa hình của huyện Tam Nông tương đối đa dạng, thể hiện những nét đặc trưng của
một vùng bán sơn địa. Đất đai có núi, đồi, ruộng, đồng, sông, ngòi, hồ, đầm. Dạng địa
hình chính của huyện Tam Nông theo hướng nghiêng dần từ Tây Bắc xuống Đông
Nam. Nhìn chung địa hình, địa mạo của huyện chia làm 2 dạng chính.
Địa hình đồng bằng phù sa: Đây là dải đất tương đối bằng phẳng được bồi đắp bởi
sông Hồng, sông Đà và sông Bứa; Tập trung ở ven sông gồm các xã, thị trấn: Vực
Trường, Hiền Quan, Hương Nha, Thanh Uyên, Tam Cường, Hương Nộn, thị trấn Hưng
Hoá, Dậu Dương, Thượng Nông, Hồng Đà, Quang Húc, Hùng Đô và Tứ Mỹ. Độ dốc
thường dưới 30, còn một phần là dải đất phù sa cổ có địa hình lượn sóng, ruộng dộc có
độ dốc từ 3 - 50
Địa hình đồi, núi thấp: Tập trung ở các xã: Dị Nậu, Thọ Văn, Phương Thịnh, Văn
Lương, Xuân Quang, Cổ Tiết và Tề Lễ. Địa hình, chủ yếu là đồi núi, độ dốc thấp có độ
cao trung bình từ 30 - 40 m so với mặt nước biển
Tổng diện tích tự nhiên của huyện là 15.596,92 ha. Trong đó: Diện tích đất nông
nghiệp là 11.315,24 ha, chiếm 72,55%; đất phi nông nghiệp là 3.888,40 ha, chiếm
24,93%; đất chưa sử dụng là 393,28 ha, chiếm 2,52%. Do đặc điểm vị trí là nơi tiếp
giáp giữa miền núi và đồng bằng nên đất đai của huyện Tam Nông tương đối phong
phú và đa dạng, bao gồm một số loại đất chính như: Đất vàng đỏ phát triển trên nền đá
sa thạch và phiến thạch, đất đỏ vàng phát triển trên nền đá phiến Mica và Gnai, đất xám
vàng phát triển trên nền phù sa cổ, đất phù sa không được bồi hàng năm và đất phù sa
được bồi hàng năm của sông Hồng, sông Đà, sông Bứa, đất thung lũng dốc tụ, đất đồi
núi bậc thang bạc mầu và đất lầy thụt.
Hiện trạng sử dụng đất năm 2007 của huyện: Tổng diện tích tự nhiên 15.596,92 ha.
Trong đó đất nông nghiệp 11.319,32 ha, chiếm 72,5%; đất phi nông nghiệp 3.884,32 ha,
chiếm 24,91%; đất chưa sử dụng 393,28 ha, chiếm 2,52%.
Đặng Quốc Việt - Đầu tư 47
C
Bảng 1.1 Tình hình sử dụng đất đai của giai đoạn 2001 - 2007
(ĐV: Ha)
STT Mục đích sử dụng đất Năm 2001 Năm 2007 2007 - 2001
1 2 4 5 (6) = (4)-(5)
Tổng diện tích đất tự nhiên 15.551,34 15.596,92 45,58
1 Đất nông nghiệp 9.313,25 11.315,24 2.001,99
1.1 Đất sản xuất nông nghiệp 6.239,58 7.133,50 893,92
1.1.1 Đất trồng cây hàng năm 4.686,50 4.966,27 279,77
1.1.1.1 Đất trồng lúa 3.562,73 3.680,70 117,97
1.1.1.2
Đất cỏ dùng vào chăn nuôi 28,32 28,76
0,44
1.1.1.3
Đất trồng cây hàng năm khác 1.095,45 1.256,81
161,36
1.1.2 Đất trồng cây lâu năm 1.553,08 2.167,23 614,15
1.2 Đất lâm nghiệp 2.933,56 3.604,47 670,91
1.2.1 Đất rừng sản xuất 2.535,57 2.877,97 342,40
1.2.2 Đất rừng phòng hộ 397,99 726,50 328,51
1.3 Đất nuôi trồng thuỷ sản 139,38 576,54 437,16
1.4 Đất nông nghiệp khác 0,73 0,73 0,00
2 Đất phi nông nghiệp 4.446,00 3.888,40 -557,60
3 Đất chưa sử dụng 1.792,09 393,28 -1.398,81
Nguồn: Phòng tài nguyên và môi trường
1.2.2.2 Tài nguyên nước
Trên địa bàn huyện có 3 dòng sông chảy qua là: sông Hồng, sông Đà và sông Bứa.
Sông Thao chảy qua 11 xã với chiều dài 34km. Lưu lượng dòng chảy vào mùa mưa rất
lớn, tháng 8 có lưu lượng lớn nhất là 2.960m3/s và ngược lại mùa khô rất thấp, tháng 3
có lưu lượng là 296m3/s. Do chảy qua hầu hết các xã trên địa bàn huyện nên sông Thao
có vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt của nhân
dân; đồng thời cũng cung cấp một lượng phù sa mới cho đồng ruộng góp phần vào việc
cải thiện độ phì của đất. Sông Đà có chiều dài 4,1km, đây cũng chính là đoạn hợp lưu
của sông Đà vào sông Thao thành sông Hồng; Sông Bứa có chiều dài 12km. Lưu lượng
dòng chảy trong mùa mưa cao nhất vào tháng 9 là 89,4m3/s và trong mùa khô thấp nhất
là tháng 3 có 9,88m3/s. Sông Bứa cũng góp phần tích cực vào việc tưới, tiêu và bồi đắp
phù sa cho đồng ruộng. Tuy nhiên, do dòng sông hẹp và chảy qua địa hình đồi núi, độ
dốc cao nên vào mùa mưa lũ lớn xảy ra từ 2 - 3 lần/năm. Tam Nông còn có rất nhiều
suối, ao, hồ, đập. Đây là những nguồn nước tự nhiên phục vụ cho sản xuất nông nghiệp
Nhìn chung các nguồn nước cung cấp đủ để nuôi trồng thuỷ sản, nước tưới phục vụ
sản xuất nông nghiệp và nước sinh hoạt cho nhân dân. Ngoài nguồn nước được cung
Đặng Quốc Việt - Đầu tư 47
C
cấp bởi các dòng sông thì các ao hồ, kênh mương cũng góp phần tích cực trong việc
phục vụ sản xuất và điều tiết nguồn nước vào mùa mưa cũng như mùa khô trên địa bàn.
1.2.2.3 Tài nguyên khoáng sản
Hiện nay, trên địa bàn huyện có 9 loại mỏ khoáng sản và điểm quặng trong đó có 2
mỏ lớn vừa, 3 mỏ nhỏ và 4 điểm quặng gồm có: Than bùn tại Cổ Tiết 2 mỏ, trữ lượng
khoảng 456.000 tấn. Mica tại Thọ Văn 01 mỏ, trữ lượng khoảng 5.000 tấn. Ngoài ra
còn có 01 mỏ khác tại xã Dị Nậu, nhưng chưa được thăm dò trữ lượng của mỏ. Caolin -
Fenpats tại Dị Nậu có trữ lượng Caolin khoảng 3.319.000 tấn, Fenpats khoảng
2.991.000 tấn. Cát xây dựng tại các dòng sông trữ lượng khoảng 3,5 triệu m3. Cuội Sỏi
tại Cổ Tiết, có trữ lượng khoảng 12.748.800 m3.
Khoáng sản ở của huyện Tam Nông về số lượng và chủng loại không nhiều, nhưng
khá tập trung và trữ lượng cao, lộ thiên dễ khai thác.
1.2.2.4 Tài nguyên rừng
Tài nguyên rừng của huyện Tam Nông hiện nay đang được phục hồi và ngày càng
phát triển. Theo số liệu thống kê đất đai năm 2007, tổng diện tích đất rừng là 3.604,47
ha chiếm 23,11% tổng diện tích tự nhiên của huyện. Trong đó: Rừng trồng sản xuất
2.877,97ha, chiếm 18,45%; Rừng trồng phòng hộ chiếm 4,66%. Tài nguyên rừng đã
góp phần giữ nước đầu nguồn, hạn chế quá trình xô lũ, cải thiện cảnh quan môi trường
và cung cấp các loại gỗ nguyên liệu cho công nghiệp và chất đốt cho nhân dân.
1.2.3 Dân số
Người Kinh chiếm 99% dân số, cư trú ở hầu hết các xã, thị trấn. Nhân dân có kinh
nghiệm canh tác trên đồi, núi, ruộng trũng, đất phù xa, kết hợp sản xuất nông nghiệp
với lâm nghiệp, chăn nuôi gia súc, trồng cây bản địa và cây công nghiệp, nuôi trồng
thuỷ sản, trồng rau quả vùng nhiệt đới. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên có xu hướng giảm,
năm 2001 là 0,92% và năm 2007 còn 0,89%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên bình quân hàng
năm thấp hơn 1%.
Tình hình phân bố dân cư giữa các xã, thị trấn không đều, đông nhất là xã Hương Nộn,
Hiền Quan, Thị trấn Hưng Hoá, xã Hồng Đà, thưa dân cư nhất là xã Tề Lễ, Dị Nậu, Thọ Văn.
Mật độ dân số trung bình là 527 người/km2.
Bảng 1.2 Thực trạng phát triển dân số qua các năm 2001 - 2007
Chỉ tiêu Đơn vị 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
1. Tổng số dân người 79.522 79.201 80.187 80.838 81.525 81.908 82.183
Đặng Quốc Việt - Đầu tư 47
C
2. Tỷ lệ tăng tự nhiên % 0,92 0,72 0,87 0,77 0,78 0,73 0,89
3. Theo giới tính % 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
Nam giới % 48,5 48 48,2 48,3 48,5 48,5 48,5
Nữ giới % 51,2 52 51,8 51,7 51,5 51,5 51,5
4. Theo khu vực % 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
Khu vực đô thị % 5 5,1 5 5,4 5,3 5,3 5,3
Khu vực nông thôn % 95 94,9 95 94,6 94,7 94,7 94,7
1.3 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HUYỆN TAM NÔNG
Trong phát triển kinh tế huyện thì nông nghiệp vẫn đóng vai trò chủ đạo, cơ cấu
kinh tế ngày càng được chuyển biến. Các ngành tiểu thủ công nghiệp cũng được chú
trọng đầu tư và phát triển. Từ năm 2001-2007, nền kinh tế của huyện tiếp tục ổn định
và phát triển đồng đều ở tất cả các ngành, các lĩnh vực. Sản xuất nông, lâm, thuỷ sản
tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, từng bước nâng cao chất lượng, giá trị
và hiệu quả kinh tế. Nông nghiệp - nông thôn có sự chuyển dịch cơ cấu các loại hình,
các thành phần kinh tế; công nghiệp - xây dựng tiếp tục duy trì được tốc độ tăng
trưởng; năng lực sản xuất của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực tăng cao. Các ngành dịch vụ
tiếp tục có chuyển biến, quy mô thị trường tiếp tục được mở rộng; Cơ cấu kinh tế của
huyện đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng, dịch vụ
giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Nhìn chung: hiện nay kinh tế của huyện chủ yếu vẫn
là kinh tế nông nghiệp, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế tuy chưa đạt mức theo yêu cầu
nhưng đã có dấu hiệu chuyển đổi tích cực.
1.3.1 Thực trạng phát triển ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Giai đoạn 2001-2007 sản xuất nông, lâm, thuỷ sản của huyện đã có những bước
phát triển khá toàn diện, hiệu quả, đã đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm, ngoài ra
còn sản xuất hàng hoá cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Nhiều mô hình
sản xuất mới trong nông nghiệp cho năng suất cao, hiệu quả cao đã được đưa vào áp
dụng và nhân rộng. Nông nghiệp ngày càng phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, cơ
cấu kinh tế nông nghiệp có sự chuyển dịch mạnh, từ độc canh cây lúa sang phát triển đa
dạng hoá các sản phẩm, việc chuyển đổi diện tích trồng trọt kém hiệu quả sang nuôi
trồng thuỷ sản đang được tích cực triển khai, phát triển chăn nuôi đã đem lại hiệu quả
kinh tế cao cho sản xuất.
1.3.1.1 Ngành trồng trọt
Đặng Quốc Việt - Đầu tư 47
C
Việc sản xuất trong ngành trồng trọt hiện nay diễn ra chủ yếu trên qui mô cá thể hộ
gia đình do đó việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cơ giới hoá gặp rất nhiều
khó khăn. Trong cơ cấu ngành trồng trọt vẫn tập trung chủ yếu vào các cây lương thực.
Về sản xuất lương thực: Diện tích đất sản xuất lương thực tăng 5,22% trong khi mặt
bằng đất canh tác giảm 146 ha, diện tích tăng chủ yếu là do tăng vụ. Do trong sản xuất
nông nghiệp đã tích cực triển khai đưa nhiều giống cây trồng mới có năng suất cao vào
sản xuất, nên đã đưa năng suất lúa từ 41,5 tạ/ ha năm 2001, lên 44,0 tạ/ ha năm 2007.
Lương thực bình quân đầu người từ 321 kg năm 2001 lên 355 kg vào năm 2007, so với
năm 2001 đã tăng 34,0 kg và gấp 1,1 lần.
Đối với sản xuất lúa: đã chuyển dịch mạnh cơ cấu các trà lúa, giống lúa. Ở vụ Đông
xuân, trà xuân muộn đã chiếm trên 56% diện tích sản xuất lúa toàn huyện. Vụ đông
được chú trọng chỉ đạo mở rộng qua các năm, đến nay đã là vụ sản xuất chính, diện tích
cây vụ đông từ 1.389,5 ha năm 2001 lên 1.490,1 ha năm 2007, góp phần nâng cao thu
nhập trên đơn vị diện tích. Sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp đã xuất
hiện nhiều mô hình sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao. (theo số liệu điều tra năm 2007
huyện đã xây dựng 43 mô hình, trong đó có 33 mô hình đạt tiêu chí thu nhập cao).
Cây công nghiệp dài ngày như cây sơn, diện tích trồng sơn năm 2007 là 445 ha, tăng
317,9 ha so với năm 2001, sản lượng nhựa sơn tăng 3,5 lần (tăng bình quân mỗi năm
21%), giá trị tăng 3,1 lần (tăng bình quân mỗi năm 21%), đặc biệt là giai đoạn 2004 -
2006 mỗi năm tăng bình quân 34,7% giá trị. Diện tích trồng sơn tăng mạnh: năm 2001
là 127,1 ha tới năm 2007 đã đạt tới 450 ha, GTSX cây sơn đạt 9,11 tỷ đồng. Tính trên
mỗi ha trồng sơn cho hiệu quả kinh tế gấp 1,2 lần trồng lúa. So với các cây trồng khác
cây sơn mang lại hiệu quả rất cao. Trồng một ha sơn trên đất đồi trung bình hàng năm
chỉ cần cho thu 300 kg nhựa đã tương đương với 8 - 8,5 tấn thóc trong khi đó trồng sắn,
cây ăn quả, trồng bạch đàn hiện nay mới đạt 4-5 tấn thóc/ha/năm, nhưng không ổn định.
Đây là hướng đi phát triển mới ngành trồng trọt huyện. Nhằm chuyển đổi cơ cấu sản
xuất trong nông nghiệp trên địa bàn, phát triển theo hướng sản xuất tập trung, tạo ra
khối lượng sản xuất hàng hoá lớn có giá trị kinh tế huyện đang triển khai dự án ĐTPT
cây sơn nhựa trên địa bàn từ 2004 - 2010. Với ưu thế về điều kiện tự nhiên thiên nhiên
rất thuận lợi cho việc trồng, sản xuất sơn trên diện rộng, dự án được triển khai hiệu quả,
bước đầu đã đem lại hiệu quả kinh tế cho người dân trồng sơn.
Đặng Quốc Việt - Đầu tư 47
C
Cây công nghiệp ngắn ngày chủ yếu là lạc, đậu tương: diện tích trồng tương đối ổn
định khoảng 900 ha, tuy nhiên do có sự đầu tư thâm canh và áp dụng các tiến bộ kỹ
thuật nên sản lượng năm 2007 so với năm 2001 tăng 1,37 lần, giá trị sản lượng tăng 3,7
lần.
Bảng 1.3 GTSX ngành trồng trọt năm 2007
Các chỉ tiêu
Sản lượng
(tấn )
Đơn giá
(nghìn đồng)
GTSX
(tỷ đồng)
Giá CĐ Giá TT Giá CĐ Giá TT
A) Cây lương thực 46,516 93,460
1) Lúa 19545,0 1.600 3.200 31,272 62,544
2) Ngô hạt khô 7477,9 1.570 3.200 11,740 23,929
3) Khoai lang tươi 814,9 500 1.200 0,407 0,977
4) Sắn tươi 5859,0 520 1.000 3,046 5,859
5) Cây chất bột khác 100,0 500 1.500 0,05 0,150
B) Rau đậu các loại 5344,6 940 2000 5,023 10,689
C) Cây CN hàng năm 4,475 13,864
1) Đỗ tương 140,6 3.500 10.000 0,492 1,406
2) Lạc vỏ khô 1203,2 3.200 10.000 3,850 12,032
3) Mía 360,0 210 900 0,075 0,324
4) Cây CN hàng năm khác 57,120 0,102
D) Cây CN lâu năm 2,003 10,772
1) Cây chè 376,8 1.500 2.800 0,565 1,656
2) Cây sơn 115,4 9.000 79.000 1,438 9,116
E) Cây ăn quả lâu năm 28,311 31,668
1) Cây cam, quýt 81,4 3.400 9.000 0,276 0,732
2) Cây dứa 157,3 1.000 1.200 0,157 0,189
3) Cây chuối 3150 1.300 1.000 4,095 3,150
4) Cây bưởi 206,4 1.600 3.000 0,330 0,619
5) Nhãn, vải, xoài 1402,4 11.000 9.200 15,426 12,902
6) Cây chanh 120,1 2.500 11.000 0,300 1,321
7) Cây táo 144,9 1.300 2.000 0,188 0,290
8) Cây ăn quả khác 2261 2.830 4.500 6,398 10,174
9) Các loại cây khác 1,138 2,290
G) Sản phẩm phụ trồng trọt 1,296 1,832
Tổng cộng 87,626 162,285
Phân tích cơ cấu ngành trồng trọt năm 2007 ta có thể thấy rõ cây lương thực vẫn
chiếm tỷ trọng chính trong cơ cấu GTSX (57,4% ), riêng sản xuất lúa chiếm tới 38,2 %
trong GTSX ngành trồng trọt. Các cây công nghiệp hàng năm và cây công nghiệp lâu
năm vẫn chiếm tỷ trọng thấp.
1.3.1.2 Ngành chăn nuôi
Đặng Quốc Việt - Đầu tư 47
C
Năm 2007 tổng GTSX lĩnh vực chăn nuôi đạt 48,95 tỷ đồng (giá cố định). Trong cơ
cấu ngành nông nghiệp, lĩnh vực chăn nuôi chiếm tỷ trọng 33,2%. Trong đó: Chăn nuôi
gia súc chiếm tỷ trọng 59% toàn lĩnh vực chăn nuôi, chăn nuôi gia cầm chiếm 16% và
sản phẩm chăn nuôi khác chiếm 14%. Tổng đàn bò là 18.216 con, so với năm 2001 tăng
1,73 lần, đàn trâu có xu hướng giảm, với tổng đàn là 3.212 con giảm 0,102 lần; Sản
lượng thịt lợn hơi xuất chuồng tăng 1,16 lần, sản lượng trứng gia cầm tăng 1,04 lần so
với năm 2001, riêng chăn nuôi gia cầm biến động không lớn về tổng đàn, nhưng có xu
hướng giảm số hộ nuôi và tăng qui mô chăn nuôi trong mỗi nông hộ.
Trong cơ cấu vật nuôi : chăn nuôi lợn chiếm tỷ trọng chính trong GTSX ngành chăn
nuôi (56,3%). Qui mô chăn nuôi nhỏ lẻ, chủ yếu là tận dụng các sản phẩm từ ngành
trồng trọt do đó nên hiệu quả kinh tế không cao. Ngành chăn nuôi trong những năm vừa
qua chưa được chú trọng đầu tư đúng mức nên tốc độ phát triển chậm. Về chuyển đổi
cơ cấu giống: Tỷ lệ lợn ngoại và lợn lai hướng nạc đạt 14% tổng đàn (năm 2007); đàn
lợn nái ngoại chiếm 14,3% tổng đàn lợn nái (năm 2007); tỷ lệ đàn bò lai sind đến năm
2007 đạt 18% tăng 3 lần so với năm 2001.
Bảng 1.4 GTSX ngành chăn nuôi năm 2007
Các chỉ tiêu
Sản lượng
(tấn )
Đơn giá
(nghìn đồng)
GTSX
(tỷ đồng)
Giá CĐ Giá TT Giá CĐ Giá TT
A) Gia súc gia cầm 38,753 87,724
1) Lợn 2756,9 8.000 18.000 22,055 49,424
2) Trâu 200 6.330 25.000 1,266 5,000
3) Bò 634 8.300 25.000 5,262 15,850
4) Gà, vịt, ngan ngỗng 590 13.000 25.000 7,670 14,750
5) Chăn nuôi khác 2,500 2,500
B) S.phẩm không qua giết
mổ
5,690 10,800
1) Trứng các loại (1000 quả) 8114,0 670 1.200 5,436 9,736
2) Mật ong 19,0 13.400 56.000 0,254 1,064
C) Săn bắt thuần dưỡng 3,500 3,500
D) Các s.phẩm phụ 1,009 3,107
Tổng số 48,954 101,623
Nhìn chung việc phát triển ngành chăn nuôi trong những năm qua gặp rất nhiều khó
khăn, từ năm 2005 - 2007 GTSX ngành chăn nuôi không có xu hướng tăng. Sản xuất
chăn nuôi ở địa bàn đều ở qui mô cá thể hộ gia đình, tuy qui mô chăn nuôi mỗi hộ trong
những năm gần đây có xu hướng tăng nhưng đây thực sự là một rào cản đối với sự phát
triển của ngành chăn nuôi trong những năm qua. Trên địa bàn không có cơ sở sản xuất
Đặng Quốc Việt - Đầu tư 47
C

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét