Thứ Ba, 25 tháng 2, 2014

VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ SẢN XUẤT

một hình thức tín dụng bằng tài sản thực (nhà ở, văn phòng làm việc,
máy móc- thiết bị).
Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy ngời cho vay khi chuyển giao
tài sản cho ngời đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng ngời đi vay
sẽ trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng.
Trong thực tế một số nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không
dựa trên cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm về khách hàng mà chú trọng
đến các bảo đảm, chính quan điểm này đã làm ảnh hởng đến chất lợng
tín dụng.
Giá trị hoàn trả thông thờng phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói
cách khác là ngời đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Để
thực hiện đợc nguyên tắc này phải xác định lãi xuất danh nghĩa lớn
hơn tỷ lệ lạm phát, hay nói cách khác phải xác định lãi xuất thực d-
ơng.
Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay đợc cấp trên cơ sở cam kết
hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định
quan hệ tín dụng nh hợp đồng tín dụng, khế ớc Thực chất là lệnh
phiếu, trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho
vay khi đến hạn thanh toán.
1.1.2.2. Các loại hình cho vay của ngân hàng.
Hoạt động cấp tín dụng giữ vai trò quan trọng đối với bản thân ngân hàng bởi
thu nhập từ hoạt động này không những chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập
của ngân hàng mà còn đảm bảo cho việc trả lãi các nguồn vốn huy động. Việc
cấp tín dụng đợc thực hiện trên cơ sở nguồn vốn huy động đợc và nhu cầu về
vốn của khách hàng. Hoạt động cấp tín dụng có thể hiểu là việc mua bán
quyền sử dụng vốn tệ trong đó ngời mua là các chủ thể kinh tế có nhu cầu về
vốn để tài trợ cho các hoạt động nh: Sản xuất kinh doanh, mua sắm, dự trữ
còn ngời bán chính là ngân hàng.
Để hiểu rõ hơn về hoạt động này, chúng ta cần phân loại chúng theo những
tiêu thức nhất định:
- Căn cứ theo thời hạn cho vay
5
+ Cho vay ngắn hạn: Là hình thức cấp tín dụng thờng có thời hạn dới một
năm và mục đích sử dụng chủ yếu là để bù đắp sự thiếu hụt vốn tạm thời nh
phục vụ cho thanh toán tiền hàng hoá, tài trợ vốn lu động hay thanh toán ngoại
thơng
+ Cho vay trung hạn: Đây là hình thức cấp tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5
năm và thờng sử dụng để đổi mới trang thiết bị, mua sắm máy móc mà thời
gian khấu hao thờng không quá dài để có thể hoàn trả vốn đúng hạn cho ngân
hàng.
+ Cho vay dài hạn: Là khoản cấp tín dụng có thời hạn trên 5 năm và thờng
sử dụng để xây nhà xởng, đầu t dây chuyền công nghệ với những dự án sản xuất
lớn có thời gian thu hồi vốn dài. Các khoản vay này thờng đòi hỏi thế chấp và
chịu nhiều rủi ro.
- Căn cứ theo khách hàng vay vốn
+ Cho vay các định chế tài chính bao gồm cấp tín dụng cho các ngân
hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín
dụng và các định chế tài chính khác.
+ Cho vay các tổ chức, doanh nghiệp sản xuất- kinh doanh.
+ Cho vay cá nhân.
- Căn cứ theo mục đích sử dụng khoản vay
+ Cho vay nhằm mục đích phục vụ sản xuất- kinh doanh.
+ Cho vay nhằm phục vụ đời sống, tiêu dùng.
- Căn cứ theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
+ Cho vay không bảo đảm: Là loại hình cho vay không có có tài sản
thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của ngời thứ 3, mà việc cho vay chỉ dựa vào
uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong
kinh doanh, có khả năng tài chính lành mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân
hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần
một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
+ Cho vay có bảo đảm là loại hình cấp tín dụng dựa trên cơ sở các bảo
đảm nh thế chấp hay cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ 3. Đối với
các khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải
6
có bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn
thu thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
- Căn cứ theo phơng thức cho vay
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: Đây là hình thức cấp tín dụng mà ngân
hàng và khách hàng cùng ký kết một hơp đồng hạn mức trong đó qui định một
khối lợng tiêu dùng mà khách hàng đợc phép vay của ngân hàng trong một thời
gian nhất định, hết thời gian này thì số còn lại mà khách hàng không sử dụng sẽ
không còn giá trị nữa. Trong hợp đồng hạn mức có thể bao gồm các điều khoản
nh việc sử dụng vốn vay, lãi suất, kỳ hạn trả nợ, cung cấp các báo cáo tài chính
và các dữ liệu về tình hình sản xuất- kinh doanh khác, tài sản đảm bảo, và trong
trờng hợp vỡ nợ, các điều khoản liên quan đến việc chấm dứt hợp đồng chi trả
những khoản vay còn tồn đọng. Trong thời gian của hợp đồng hạn mức, khi
khách hàng có nhu cầu vay vốn mà không vợt quá hạn mức đã ký thì chỉ cần
nộp đơn xin vay và lập hợp đồng vay là đợc ngân hàng xem xét với những điều
kiện vay vốn đã đợc thoả thuận trớc trong hợp đồng hạn mức tín dụng.
+ Cho vay từng lần: Đây là hình thức cấp tín dụng mà ngân hàng và ngời
vay sẽ ký kết hợp đồng riêng đối với mỗi khoản vay khi khách hàng có nhu cầu.
Mỗi lần khách hàng có nhu cầu vay vốn thì việc ký kết hợp đồng đợc thực hiện
từ đầu, khách hàng và ngân hàng sẽ thoả thuận riêng cho từng lần đó về số lợng
tín dụng, thời hạn khoản vay, lãi suất áp dụng, tài sản đảm bảo, báo cáo tài
chính
1.2. Lý luận tổng quan về cho vay tiêu dùng
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của cho vay tiêu dùng
Cho vy tiêu dùng đợc hình thành và phát triển từ việc giải quyết hai mâu
thuẫn. Đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu tiêu dùng và khả năng thanh toán của các
cá nhân ngời tiêu dùng và mâu thuẫn giữa sản xuất hàng hoá và tiêu thụ hàng
hoá tiêu dùng.
Với mâu thuẫn thứ nhất, ngời tiêu dùng hay còn gọi là ngời nhận tài trợ, là
những ngời thuộc mọi tầng lớp dân c, không phân biệt màu da, lứa tuổi, nghề
nghiệp, trình độ học vấn là những ng ời có công việc và thu nhập ổn định, có
nhu cầu mua sắm nhằm nâng cao chất lợng cuộc sống khi cha có đủ tiền để thực
7
hiện những mong muốn trên. Thuật ngữ nhu cầu ở đây đợc hiểu theo ba mức
độ khác nhau là nhu cầu tự nhiên, mong muốn và yêu cầu.
Nhu cầu tự nhiên là vốn có, là một mặt gắn liền với quá trình tồn tại của con
ngời nh những đòi hỏi về ăn, ở, mặc
Mong muốn là nhu cầu có dạng đặc thù, tơng ứng với trình độ văn hoá và
nhân cách của mỗi cá nhân. Mong muốn thì có nhiều nhng khả năng đáp ứng
mong muốn là có hạn.
Yêu cầu là mong muốn gắn liền với khả năng thanh toán. Ngời ta lựa chọn
hàng hoá thoả mãn tốt nhất nhu cầu riêng lẻ của họ nhng có tính đến khả năng
thanh toán.
Trong khi nhu cầu tự nhiên là vô hạn thì nhu cầu có khả năng thanh toán là
hữu hạn. Để biến nhu cầu tự nhiên thành nhu cầu có khả năng thanh toán thì
phải tính đến tình trạng thu nhập trong tơng lai của ngời tiêu dùng.
Trên thực tế, ngời tiêu dùng không thể có ngay đợc các khoản thu nhập, các
khoản tiền lớn trong hiện tại mà phải qua quá trình tích luỹ lâu dài, có thể gần
cả đời ngời. Do đó, thông qua việc cấp tín dụng, ngân hàng đã cho phép khách
hàng đợc sử dụng trớc hàng hoá khi khi cha có khả năng thanh toán.
Mâu thuẫn thứ hai là mâu thuẫn giữa việc sản xuất hàng hoá và tiêu thụ
hàng hoá của các nhà sản xuất- kinh doanh. Những ngời sản xuất chỉ đạt đợc
hiệu quả trong hoạt động của mình khi họ nắm bắt đợc nhu cầu và đáp ứng tốt
nhu cầu này. Các công ty thơng mại lớn có thể cho phép các công ty con của
mình bán chịu hàng hoá cho khách hàng, chủ yếu là bán trả góp để nâng cao
khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, trong trờng hợp này, thờng thì ngời tiêu dùng
chỉ đợc thoả mãn với một số loại hàng hoá nhất định. Khi đó, các tổ chức tín
dụng có thể đáp ứng nhu cầu về nhiều loại hàng hoá khác nhau do các công ty
thơng mại khác nhau cung cấp thông qua tài trợ trực tiếp hoặc gián tiếp cho ng-
ời tiêu dùng (bằng việc mua các phiếu tiêu dùng của ngời bán lẻ hàng hoá cho
khách hàng tiêu dùng) do vậy đã xuất hiện cho vay tiêu dùng.
1.2.2. Đối tợng của hoạt động cho vay tiêu dùng
- Phân theo mức thu nhập
8
+ Những ngời có thu nhập thấp: Nhu cầu tín dụng của nhóm ngời này th-
ờng rất hạn chế do nguồn thu nhập không đủ để thoả mãn những nhu cầu đa
dạng của họ. Tuy nhiên, họ cũng có những mong muốn chi tiêu không khác
mấy so với với những ngời có thu nhập cao hơn. Do đó, nếu có biện pháp phù
hợp cũng có thể hình thành đợc các khoản vay hợp lý đến các nhóm đối tợng
này.
+ Những cá nhân có thu nhập trung bình: Nhu cầu tín dụng của nhóm
này có xu hớng tăng trởng ngày càng mạnh bởi khoản tích luỹ của nhóm này
tuy ít song thu nhập trong tơng lai của họ có phần ổn định có thể chi trả cho
những nhu cầu tiêu dùng hiện tại.
+ Những cá nhân có thu nhập cao: Những ngời này thờng cần tới những
khoản vay với t cách là những khoản phụ trợ linh hoạt, trợ giúp thêm cho khả
năng thanh toán đặc biệt khi tiền của họ đã bị trói chặt vào những khoản đầu t
dài hạn. Mặc dù việc vay mợn nhằm mục đích tiêu dùng của họ chỉ thể hiện
một tỷ trọng nhỏ trong tổng số tài sản mà họ sở hữu nhng lại là những món tiền
lớn so với các nhóm khách hàng khác nên các ngân hàng tỏ ra đặc biệt quan
tâm đến nhóm khách hàng này.
- Phân theo tình trạng công tác hay lao động: Nhu cầu tiêu dùng của các cá
nhân còn phụ thuộc vào tính chất công việc, nghề nghiệp hoặc nơi công tác. Xét
theo khía cạnh này, chúng ta có các nhóm khách hàng sau:
+ Những ngời làm công ăn lơng.
+ Những ngời có công việc kinh doanh riêng.
+ Những ngời hành nghề chuyên nghiệp (Bác sĩ, ca sĩ, t vấn ).
+ Những ngời lao động tự do.
Trên thực tế, những ngời thuộc 3 nhóm đầu có thu nhập cao và ổn định hơn
so với những ngời thuộc nhóm cuối nên nhu cầu vay tiêu dùng cũng chủ yếu
phát sinh từ 3 nhóm trên.
1.2.3. Lịch sử phát triển của cho vay tiêu dùng trên thế giới
Vào những năm 1980, hệ thống ngân hàng thơng mại của Mỹ phải tiến hành
cải cách với lý do dới sức ép của cạnh tranh, việc thực hiện nghiệp vụ của các
ngân hàng thơng mại gặp nhiều bất lợi. Trong thực tế, sức mạnh cạnh tranh đã
9
tạo ra những thay đổi trong lĩnh vực công nghệ, dân số học, luật pháp và chính
nó cũng góp phần vào sự thay đổi về dịch vụ mà ngân hàng cung ứng, đồng thời
cũng làm giảm vai trò của các ngân hàng thơng mại trong hệ thống tài chính
dẫn đến sự thay đổi cơ cấu trong các ngân hàng . Môi trờng cạnh tranh thay đổi
một cách nhanh chóng, cùng với nó là việc các ngân hàng không còn duy trì đ-
ợc khả cạnh tranh nh trớc. Hiện tợng này mang nét đặc trng của cuộc khủng
hoảng trong những năm 1930 nhng nó xoá dần khả năng đứng vững của các
ngân hàng dẫn đến một hệ thống ngân hàng yếu kém, hoạt động không hiệu
quả.
Cuộc khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng bắt đầu vào những năm 1970
khi các nhà môi giới lập ra thị trờng tiền tệ bán lẻ dẫn đến cuộc cạnh tranh
giữa các công ty tài chính tiêu dùng, các công ty thơng mại với các ngân hàng.
Do đó, đến đầu những năm 1980, trớc đòi hỏi của các ngân hàng về một lĩnh
vực tham gia ở mức độ cao hơn, Quốc hội Mỹ đã cho phép các ngân hàng cung
ứng nhiều sản phẩm và dịch vụ mới.
Những thay đổi đó đòi hỏi các ngân hàng phải đổi mới công nghệ để thích
ứng và để nâng cao khả năng cạnh tranh. Đầu tiên, đó là việc các ngân hàng sử
dụng hệ thống máy vi tính nhằm giảm thời gian và chi phí quản lý. Kế đến là sự
xuất hiện của máy rút tiền tự động (Automated Teller Machine- ATM) đợc đặt
các trung tâm buôn bán, phi trờng, các trung tâm vận tải nhằm tạo thuận lợi cho
ngời sử dụng dịch vụ ngân hàng và giảm chi phí xây cất cho ngân hàng.
Cùng với thời gian, hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng đã thay đổi.
Nếu nh trớc đây các ngân hàng chỉ giới hạn phạm vi hoạt động trong cho vay
thơng mại thì ngày nay họ đã mở rộng thêm hoạt động cho vay tiêu dùng đặc
biệt là sau cuộc khủng hoảng vào những năm 1930.
Cải cách lớn nhất trong lĩnh vực tài chính trong thời gian này là việc các qui
định về kiểm soát tiền tệ và các qui định khác đối với các tổ chức tài chính làm
nhiệm vụ ký thác đã đợc ban hành thành luật. Sắc luật này cho phép các ngân
hàng tiết kiệm công cộng liên bang đợc kinh doanh, hợp tác và có các quan hệ
cho vay với các doanh nghiệp nhận tiền ký thác, đơc tiến hành cho vay tiêu
dùng và cung ứng các dịch vụ khác.
10
Nh vậy hệ thống ngân hàng Mỹ đã có sự cải tổ để nâng cao tính cạnh tranh
không chỉ với các tổ chức tài chính trong nớc mà với cả các tổ chức nớc ngoài.
Từ đó cho vay tiêu dùng đã ra đời và chính thức đợc công nhận nh một nghiệp
vụ của ngân hàng. Đến năm 1987, sau khoảng 7 năm ban hành luật này, các
ngân hàng Mỹ đã cung cấp 80% khối lợng tín dụng tiêu dùng, trong đó 45%
dựa trên cơ sở cho vay trả góp. Ngày nay cho vay tiêu dùng đã phát triển mạnh
theo xu thế chung của nền kinh tế thế giới.
Một yếu tố khách quan nữa thúc đẩy hoạt động cho vay tiêu dùng là xuất
phát từ mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Thông qua mối quan hệ
này, ngân hàng thấy đợc các nhu cầu từ cả phía ngời sản xuất lẫn ngời tiêu
dùng: Các nhà sản xuất cần có sự hỗ trợ để gia tăng tiêu thụ hàng hoá còn ngời
tiêu dùng cần tìm nguồn tài trợ cho các nhu cầu của mình.
1.2.4. Khái niệm cho vay tiêu dùng
1.2.4.1. Khái niệm
Có nhiều quan điểm khác nhau về cho vay tiêu dùng, có ngời cho rằng: Cho
vay tiêu dùng là hình thức cấp tín dụng đối với ngời tiêu dùng nhằm tài trợ cho
chính sự tiêu dùng, ngời khác lại nói: Tín dụng tiêu dùng là quan hệ kinh tế
giữa một bên là ngân hàng và một bên là cá nhân ngời tiêu dùng, trong đó ngân
hàng chuyển giao tiền cho khách hàng với nguyên tắc ngời đi vay (khách hàng)
sẽ hoàn trả cả gốc lẫn lãi tại một thời điểm xác định trong tơng lai .Nh ng tựu
chung lại, chúng ta có thể hiểu cho vay tiêu dùng là hình thức cấp tín dụng
trong đó ngân hàng thoả thuận để khách hàng là cá nhân hay hộ gia đình sử
dụng một khoản tiền với mục đích tiêu dùng với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc
và lãi sau một thời gian nhất định .
Cho vay tiêu dùng là hình thức cấp tiêu dùng rất hữu ích nhằm tài trợ cho
nhu cầu chi tiêu, mua sắm, sửa chữa nhà cửa của các cá nhân, hộ gia đình.
Các khoản vay này giúp ngời tiêu dùng có thể sử dụng hàng hoá, dịch vụ trớc
khi họ có khả năng chi trả, tạo cho họ có đợc một cuộc sống với chất lợng cao
hơn nh mua xe, mua nhà, nghỉ ngơi, du lịch
1.2.4.2. Đặc điểm cho vay tiêu dùng
- Qui mô mỗi khoản vay nhỏ nhng số lợng các khoản vay lớn
11
Các khách hàng khi tìm đến ngân hàng nhằm mục đích vay tiêu dùng thờng
có nhu cầu vốn không lớn lắm. Đó là vì: Khi xác định mua sắm bất cứ vật dụng
gì ngời tiêu dùng phải có một khoản tích luỹ từ trớc (vì không khi nào các ngân
hàng cho vay đến 100% nhu cầu vốn) và các vật dụng trong gia đình thờng
không quá đắt đỏ, kể cả khi ngời tiêu dùng vay để mua nhà, xây nhà hoặc sửa
chữa nhà để ở thì qui mô các khoản đó cũng không quá lớn đối với một ngân
hàng. Nhng số lợng các khoản vay tiêu dùng lại lớn do đối tợng của cho vay
tiêu dùng là mọi tầng lớp dân c trong xã hội.
- Các khoản vay tiêu dùng có lãi suất cứng nhắc
Không nh hầu hết các khoản vay kinh doanh hiện nay, lãi suất có thể thay
đổi theo điều kiện thị trờng, các khoản vay tiêu dùng thờng có lãi suất ở một
mức cố định, đặc biệt là trong cho vay tiêu dùng trả góp. Ngay cả khi quan hệ
tín dụng đợc xác lập thì mức lãi suất đã đợc đa ra và duy trì trong suốt thời hạn
vay (kể cả có thay đổi lãi suất thì việc thay đổi đó cũng đợc qui định ngay trong
hợp đồng tín dụng khi ký kết).
- Các khoản cho vay tiêu dùng thờng có độ rủi ro cao
Vì đối tợng của hoạt động cho vay tiêu dùng là các cá nhân, hộ gia đình nên
bên cạnh các yếu tố khách quan từ bên ngoài còn có các yéu tố chủ quan từ
chính ngời tiêu dùng. Các yếu tố khách quan nh thiên tai, bệnh tật, mất mùa,
thất nghiệp và chu kỳ kinh tế. Thời kỳ nền kinh tế mở rộng và mọi ngời dân đều
lạc quan tin tởng vào tơng lai thì nhu cầu tiêu dùng sẽ tăng lên nhng khi nền
kinh tế suy thoái, các cá nhân, hộ gia đình thờng có t tởng phòng bị cho tơng
lai, họ sẽ hạn chế tiêu dùng và tăng cờng tích luỹ. Đây là thời kỳ khó khăn cho
các nhà sản xuất và các ngân hàng trong việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ.
Ngoài ra, cho vay tiêu dùng còn chịu ảnh hởng bởi các yếu tố chủ quan từ phía
ngời tiêu dùng khi họ muốn vay mợn để chi tiêu nhng không muốn trả. Trong
những trờng hợp nh vậythì dù có nắm giữ tài sản đảm bảo hay không thì các
ngân hàng vẫn phải đối mặt với rủi ro giảm thu nhập. Mặt khác, do các khoản
vay tiêu dùng có lãi suất cứng nhắc nên khi chi phí huy động tăng lên, ngân
hàng phải đối mặt với rủi ro lãi suất.
- Các khoản cho vay tiêu dùng có chi phí khá lớn
12
Đặc điểm của các khoản cho vay tiêu dùng là qui mô mỗi khoản vay nhỏ,
thời gian vay thờng không dài trong khi tâm lý ngời đi vay là không muốn công
khai tình hình tài chính nên việc thẩm định trớc khi cho vay tốn nhiều thời gian
và chi phí. Đồng thời, số lợng các khoản vay tiêu dùng lớn nên ngoài các chi
phí trên ngân hàng còn phải chịu các chi phí khác nh chi phí quản lý khoản vay,
theo dõi và kiểm tra khách hàng thờng xuyên
- Cho vay tiêu dùng là một trong những khoản mục tín dụng có khả năng
sinh lời cao nhất mà ngân hàng thực hiện, do các khoản cho vay tiêu dùng đợc
định giá rất cao (bao hàm cả một phần rủi ro lãi suất) đến mức mà bản thân lãi
suất vay vốn trên thị trờng lẫn tỷ lệ tổn thất tín dụng phải tăng lên đáng kể thì
hầu hết các khoản cho vay tiêu dùng mới không mang lại lợi nhuận. Việc định
giá cao là do cho vay tiêu dùng là khoản mục cho vay có chi phí lớn và đọ rủi ro
cao. Hơn nữa khi vay tiền, ngời tiêu dùng dờng nh kém nhạy cảm với lãi suất.
Ngời tiêu dùng thờng quan tâm đến khoản tiền phải trả hàng tháng hơn là lãi
suất (mặc dù rõ ràng là lãi suất ghi trên hợp đồngảnh hởng đến qui mô số tiền
phải trả). Trong khi lãi suất không phải là một trong những yếu tố quan trọng
mà hộ gia đình quan tâm thì mức thu nhập và trình độ dân trí lại tác động rất
lớn đến việc sử dụng các khoản tiền vay của ngời tiêu dùng. Những ngời có thu
nhập ổn định thờng có xu hớng chi tiêu nhiều hơn thu nhập vì họ cho rằng thu
nhập trong tơng lai sẽ có thể đảm bảo chi trả cho những nhu cầu hiện tại. Mặt
khác, nếu nh trong kinh doanh ngời ta thờng phải hạch toán lỗ, lãi thì trong tiêu
dùng ngời ta đặt yếu tố thoả mãn lên hàng đầu dù có phải trả chi phí lớn hơn.
Chính vì triển vọng về lợi nhuận do hoạt động cho vay tiêu dùng mang lại
mà dù phải đối mặt với khá nhiều thách thức nhng các ngân hàng trên toàn thế
giới hiện nay đều hớng sự quan tâm vào hoạt động này, coi nó nh một trong
những lĩnh vực có vai trò chủ đạo trong dịch vụ ngân hàng cũng nh trong quản
lý ngân hàng.
1.2.4.3. Phân loại cho vay tiêu dùng
Thông qua cách phân loại này, chúng ta có thể có đợc cái nhìn khá toàn diện
về hoạt động cho vay tiêu dùng từ nhiều khía cạnh khác nhau.
Căn cứ vào mục đích vay, chúng ta có:
13
- Cho vay tiêu dùng c trú: Là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho
nhu cầu mua sắm, xây dựng hoặc cải tạo nhà cho khách hàng là các cá nhân, hộ
gia đình.
- Cho vay tiêu dùng phi c trú: Là các khoản cho vay nhằm tài
trợ cho việc trang trải các chi phí nh chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình,
chi phí cho học hành, giải trí, du lịch
Căn cứ vào phơng thức hoàn trả, ta có:
- Cho vay tiêu dùng trả góp: Đây là hình thức cho vay trong đó
ngời đi vay trả nợ (gồm cả gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ
hạn nhất định trong thời hạn cho vay, phơng thức này thờng áp dụng cho các
khoản vay có giá trị lớn hoặc thu nhập từng kỳ của ngời đi vay không đủ để
thanh toán hết một lần số nợ vay.
Đối với loại cho vay tiêu dùng này, các ngân hàng thờng chú ý đến một số
vấn đề cơ bản, có tính nguyên tắc sau:
+ Loại tài sản đợc tài trợ:
Thực tế cho thấy thiện chí trả nợ của ngời vay sẽ tốt hơn rất nhiều nếu tài sản
đợc hình thành từ tiền vay đáp ứng nhu cầu cấp thiết của họ lâu dài trong tơng
lai. Khi lựa chọn tài sản để tài trợ, ngân hàng thờng chú ý đến điều này nên chỉ
muốn tài trợ cho nhu cầu mua sắm đối với tài sản có thời hạn sử dụng lâu bền
và có giá trị lớn vì với những tài sản này, ngời tiêu dùng sẽ đợc hởng những tiện
ích từ chúng trong một thời gian dài.
+ Số tiền phải trả trớc:
Ngân hàng yêu cầu ngời đi vay phải thanh toán trớc một phần giá trị tài sản
cần mua sắm- số tiền này đợc gọi là số tiền phải trả trớc, phần còn lại ngân
hàng sẽ cho vay, số tiền trả trớc cần phải đủ lớn để một mặt làm cho ngời vay
nghĩ rằng họ chính là chủ sở hữu của tài sản, mặt khác có tác dụng hạn chế rủi
ro cho ngân hàng. Một khi không cảm nhận đợc rằng mình là chủ sở hữu của tài
sản hình thành từ tiền vay thì ngời vay có thái độ miễn cỡng trong việc trả nợ.
Ngoài ra, khi khách hàng không trả nợ trong nhiều trờng hợp ngân hàng đành
phải bán và thanh lý tài sản để thu hồi nợ.
Số tiền phải trả trớc thờng phụ thuộc vào các yếu tố sau:
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét