Thứ Hai, 20 tháng 1, 2014

VIỆT NAM VỚI QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.doc.DOC

xuất chuyên môn sâu và hợp tác rộng. Mỗi sản phẩn hoàn chỉnh là kết quả hợp
tác của nhiều nớc. CTXQG là thành tố chính của sợ dây liên kết kinh tế toàn
cầu.
II > Bản chất của toàn cầu hoá kinh tế
Mác và Ăng-ghen chỉ rõ : Vì luôn bị thúc đẩy về nhu cầu những nơi tiêu thụ
sản phẩm, giai cấp t sản xân lấn khắp toàn cầu. Nó phải xâm nhập vào khắp nơi và
thiết lập các mối quan hệ ở khắp nơi.
Sở dĩ toàn cầu hoá có sức mạnh to lớn có khả năng tạo ra một thị trờng trên
toàn cầu, có sự góp mặt của tất cả các quốc gia trên thế giới nh vậy bởi vì nó mang
tính khách quan gắn liền với xu thế vận động, phát triển của nền sản xuất xã hội.
Tuy nhiên, cái khách quan đó phải đợc thể hiện thông qua hoạt động chủ quan của
con ngời. Nói cách khác, nó là quá trình thống nhất của cái khách quan và cái chủ
quan, là thể hiện phép biện chứng của khách quan và chủ quan.
Không thể phủ nhận rằng, TCHKT nh nó đang diễn ra hiện nay đang bị các
nớc t bản phát triển chi phối, thao túng, thúc đẩy vì lợi ích của mình. Tuy nhiên,
cũng cần phải thấy rằng, TCHKT hiện nay về bản chất cũng không hoàn toàn
thuộc về CNTB, cũng không hoàn toàn thuộc về một số nớc t bản phát triển ở ph-
ơng tây, mà là yêu cầu nội tại để llsx của loài ngời phát triển. Lực lợng sản xuất
phát triển tất yếu đòi hỏi một quan hệ sản xuất tơng thích với nó. Nhng quá trình
toàn cầu hoá mà các nớc t bản khởi xớng hiện nay chỉ là mợn toàn cầu hoá của
llsx để đẩy mạnh toàn cầu hoá qhsx TBCN. Đây là quá trình ápđặt lợi ích và các
giá trị phơng tây trên phạm vi toàn cầu, kéo theo việc phổ biến hoá những mâu
thuẫn căn bản của CNTB. Cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì một trật tự mới,
công bằng, vì một TCH bình đẳng, dân chủ và tiến bộ. Vì thế sẽ càng ngày càng
găy gắt và khốc liệt hơn. Điều đấy cho thấy toàn cầu hoá còn là một quá trình
chính trị xã hội và văn hoá mang tính giai cấp, tính lịch sử cụ thể. Sự đan xen
giữa cái khách quan và cái chủ quan đã làm cho toàn cầu hoá thực chất trở thành
một quá trình hết sức phức tạp, đầy mâu thuẫn, chứa đựng cả mặt tích cực và mặt
tiêu cực đối với từng quốc gia cũng nh đối với toàn thể nhân loại. Đại hội IX của
Đảng xác định : Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày
5
càng nhiều nớc tham gia ; vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp
tác vừa có đấu tranh.
Nh vậy có thể thấy, TCHKT tự nó đã ham chứa nhu cầu tự thân của một sự
tiến hoá lịch sử, của sự công bằng, dân chủ, bình đẳng và văn minh, nhng nó cũng
là một quá trình kinh tế xã hội chứa đựng những bất bình đẳng, bất công và
nghịch lý.
6
Chơng II
Những tác động của toàn cầu hoá.
1_ Tác động của toàn cầu hoá kinh tế.
1.1 + Sự phát triển của TCHKT phá bỏ những rào cản ngăn cách giữa các
quốc gia, mở ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quan hệ kinh tế quốc
tế, từ đó các quốc gia có thể tận dụng cơ hội cho phát triển thị trờng bên ngoài.
Chúng ta đã biết đối với nền kinh tế thị trờng thì việc tạo lập đợc một thị tr-
ờng quy mô cho phát triển kinh tế là điều kiện rất quan trọng. Từ việc khai thông
thị trờng quốc gia với quốc tế cho phép bổ sung những mặt yếu của nền kinh tế
dân tộc. Một thực tế hiển nhiên là không một quốc gia nào có đầy đủ các điều kiện
xây dựng một nền kinh tế nội địa hiệu quả mà không cần tính tới thị trờng bên
ngoài cho dù đó là những quốc gia khổng lồ nh : Mỹ, Nga, Trung Quốc
1.2 + toàn cầu hoá kinh tế mở ra khả năng cho các nớc chậm phát triển
nhanh trónh tham gia vào hệ thống phân công lao động thế giới, từ đó hình thành
một cơ cấu kinh tế xã hội có hiêu quả, đẩy nhanh và rút ngắn tiến trình hiện đại
hoá.
Trong xu thế toàn cầu hoá phân công lao động quốc tế ngày một sâu sắc. Xu
hớng phân công lao động quốc tế ngày nay đang chuyển dịch từ phân công theo
chiều dọc theo phân công sang chiều ngang. Có nghĩa là trớc đây dới sự thống trị
của các nớc t bản phát triển hình thành hai nhóm nớc rõ rệt, một nhóm lạc hậu
chuyên cung cấp nhiên vật liệu, còn nhóm phát triển chuyên gia công, chế tạo sản
phẩm rồi bán lại cho các quốc gia khác. Hình thức phân công này làm cho các
quốc gia lạc hậu lại càng lạc hậu hơn. Các quốc gia phất triển khống chế thị trờng,
hạn chế sự xâm nhập bên ngoài dẫn tới chia cắt thị trờng, cản trở sự phát triển của
sản xuất và phân công lao động trên toàn thế giới. Nhng cuối cùng với sự thất bại
của chủ nghĩa thực dân và do tác động của xu thế toàn cầu hoá, hình thức phân
cônh theo chiều ngang trở thành hình thức phân công chủ yếu với nội dung của nó
là phân công theo bộ phận cấu thành sản phẩm. Các cơ sở khắp nơi trên thế giới
tham gia vào sản xuất các bộ phận các chi tiết, linh kiện theo một tiêu chuẩn, sau
7
đó đợc ráp nối với nhau thành sản phẩm hoàn chỉnh. Với hình thức phân công mới
các quốc gia đang phát triển có thể tham gia vào công đoạn nào đó mà đẩy nhanh
đợc tiến trình điều chỉnh kết cấu ngành của nền kinh tế quốc dân theo hớng công
nghiệp hoá hiện đại hoá, với sự phát triển của loại hình phân công lao động quốc
tế này, sản xuất trên phạm vi toàn cầu tạo thành một mạng lới mà trong đó mỗi
quốc gia tham dự là một mắt xích. Điều đó cũng có nghĩa là với toàn cầu hoá đã
tăng thêm sự phụ thuộc và tác động qua lại lẫn nhau giữa các nền kinh tế, tạo ra
cục diện xâm nhập, đan xen, bổ xung, hỗ trợ lẫn nhau. Cũng chính vì vậy nó có lợi
cho các quốc gia, họ có thể phát huy lợi thế, tiết kiệm lao động xã hội, tận dụng
tốt các nguồn lực cho phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế.
1.3 + Toàn cầu hoá tạo cơ hội cho các quốc gia tiếp cận với nguồn vốn và
công nghệ kỹ thuật cũng nh công nghệ quản lý.
Ngày nay trong nền kinh tế toàn cầu cùng với việc mở cửa thị trờng làm cho
các quan hệ trao đổi hàng hoá và dịch vụ gia tăng mạnh mẽ là dòng lu chuyển vốn,
công nghệ cũng đợc mở rộng và đẩy nhanh. Tham gia toàn cầu hoá các quốc gia
không chỉ tận dụng đợc thị trờng mà còn có thể thu hút, sử dụng các dòng vốn
quốc tế. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia đang phát
triển, nơi mà đang rất cần vốn và công nghệ quản lý tiên tiến. Năm1997 các nớc
đang phát triển tiếp nhận 1043 tỷ USD vốn đầu t. Kéo theo dòng chảy vốn là các
công nghệ kỹ thuật sản xuất và quản lý tiên tiến cho phép các quốc gia nâng
cao trình độ sản xuất, mở ra điều kiện tiếp tục tham gia sâu vào hệ thông phân
công lao động quốc tế. Việc than gia vào hệ thống phân công lao đọng quốc tế
mới cũng đồng thời là quá trình cạnh tranh găy gắt. Do cạnh tranh buộc các doanh
nghiệp phải nghiên cứu phất triển công nghệ mới và qua toàn cầu hoá công nghệ
này lại đợc lan truyền rộng rãi giữa các quốc gia. Vì vậy có thể thấy toàn cầu hoá
vừa là điều kiện vừa là nhân tố kích thích sự phát triển và lan toả của khoa học
công nghệ.
Một điều cần chú ý tới là trong quá trình hội nhập kinh tế của các quốc gia
trên thế giới thì quốc gia nào có tốc độ cũng nh phạm vi rộng và có chiêu sâu thì l-
8
u lợng dòng vốn và công nghệ đổ vào nớc đó cao hơn rất nhiều so với các quốc gia
khác.
1.4 + Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, hay các tổ chức kinh tế cho phép
các quốc gia thành viên đợc hởng những u đãi về thếu quan, hàng hoá có thể
nhanh tróng tiếp cận đợc với thị trờng thế giới. Đối với các quốc gia đang phát
triển thì hội nhập kinh tế quốc tế cung chính là tham gia diễn đàn cho phép mình
bình đẳng bằy tỏ quan điển bảo vệ lợi ích chíng đáng của mình. Các tổ chức khu
vực và toàn cầu là nơi tập hợp lại sức mạnh vốn rất dễ bị phân tán để đấu tranh cho
sự bình đẳng. Việc hội nhập vào các tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực, về thực
chất là sự xâm nhập ràng buộc phụ thuộc lẫn nhâu về kinh tế. Điều này vô hình
chung tạo ra cơ chế bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh. Chính vì vậy
toàn cầu hoá kinh tế cũng góp phần gia tăng xu thế hoà bình.
2, Tác động tới chính trị văn hoá xã hội .
+ Về mặt chính trị :
2.1 Toàn cầu hoá đang và sẽ thách thức đọc lập, tự chủ của các dân tộc và
chủ quyền quốc gia là một hiện thực. Cha nói tới các cuộc chiến tranh nóng do các
cờng quốc bất chấp luật pháp quốc tế gây ra, nền độc lập tự chủ của các nớc nhỏ,
các nớc chậm phat triển đang và sẽ đứng trớc nguy cơ tiềm tàng bị cộng đồng
quốc tế can thiệp một cách nhiều hơn. Hệ thống cơ chế quyền lực quốc tế gây ra
cho các quốc gia này mối lo ngại, vì nó đợc sử dụng nh là cơ sở để cộng đồng
quốc tế can thiệp trực tiếp và thách thức chủ quyền chính trị truyền thống. Ngay cả
những quyền đề ra chính sách mục tiêu kinh tế, kiểm soát điều hoà nguồn tài
nguyên nguồn thông tin, quyền quản lý các hoạt động kinh tế và khả năng hành
động của một nớc cũng sẽ bị tác động và bị các tổ chức kinh tế quốc tế ràng
buộc chặt chẽ, do đó khó có thể phát triển kinh tế dân tộc theo hớng riêng. Những
quy tắc thị trờng toàn cầu, buôn bán toàn cầu, tiền tệ toàn cầu đã trở thành lực l-
ợng cỡng chế về mặt pháp luật quốc tế đối với một nớc, nhất là các nớc nhỏ buộc
họ phải điều chỉnh chủ quyền kinh tế cho phù hợp với quy định chung thờng là do
các nớc lớn sắp đặt
9
2.2 Hoạt động của CTXQG đang đe doạ an ninh kinh tế các nớc đang phát
triển và thậm chí phát triển. Sự mở rộng hoạt động của các CTXQG làm cho các xí
nghiệp vừa và nhỏ của các nớc đang phát triển lâm vào tình trạng bị chèn ép .
CTXQG ngày càng tham gia buôn bán tiền tệ quốc tế mang tính chất đầu cơ và
thao túng thị trờng ở mức độ lớn. Do vậy, khi một nớc hoặc một khu vực nào đó
nảy sinh vấn đề kinh tế, ngân hàng đa quốc gia sẽ dồn dập đổ tiền vào hoặc rút
tiền ra, gây chấn động dữ dội trên thị trờng tiền tệ.
+ Về mặt văn hoá :
2.3 Cũng là một thách thức rất đáng kể. Bất chấp việc có ngời tán thành có
ngời phản đối thì toàn cầu hoá vẫn đang tác đọng mạnh tới văn hoá. Có một thời
ngời ta đã dự đoán rằng, trong tơng lai sẽ hình thành một thứ ngôn ngữ chung cho
từng khu vực và từ đó sẽ hình thành lên ngôn ngữ chung cho toàn thế giới. Cũng
có thời ngời ta đặt ra quốc tế ngữ để làm công cụ giao tiếp cho tất cả các dân tộc
trên thế giới. Không thể không thấy một thực tế ngày nay, hiện tợng thay dấu, hiện
tợng toàn cầu hoá về ngôn ngữ bộc lộ khá rõ trong tiếng Anh ngày càng đợc sử
dụng rộng rãi. Những sản phẩm văn hoá Mỹ, hoặc y phục thời trang, đã trở
thành món ăn tinh thần và vật chất của nhiều ngời thuộc các châu lục khác nha
nhất là giới trẻ. Vì vậy đã xuất hiện những khái niệm nh chủ nghĩa đa nguyên văn
hoá, chủ nghĩa liên văn hoá. Một hiện tợng khác cũng hết sức đáng chú ý là các
+ TCHKT thực chất là quá trình mở cửa hội nhập của các quốc gia. Trong
quá trình hội nhập, các quốc gia đều nhanh chóng đợc tiếp nhận những thông tin,
tri thức mới. Quá trình này góp phần nâng cao trình độ dân trí, tạo cơ sở nền tảng
cho dân chủ phát triển. Bởi lẽ dân chủ chỉ là hình thức khi nó dựa trên nền tảng
dân trí thấp.
Trong môi trờng bảo hộ, đặc biệt với nền kinh tế khép kín khó có thể áp dụng
những thông tin tri thức mới. Ngày nay mọi ngời dân đều có thể tiếp cận đợc với
thông tin toàn cầu, sự ngăn cách không gian thời gian hầu nh không còn ý nghĩa.
Toàn cầu hoá thực sự thúc đẩy hiểu biết, xích lại gần nhâu giữa các dân tộc.
TCH đa lai điều kiện giao lu hoọi nhập của con ngời giữa các nền văn hoá,
không những con ngời hiểu nhau hơn mà còn nâng cao giá trị văn hoá truyền
10
thống, xoá bỏ những hủ tục mở ra điều kiện phát triển cho con ngời và cho sự
chung sống hoà bình của các nền văn hoá trên toàn cầu.
+ Toàn cầu hoá mở ra khả năng phối hợp nguồn lực của các quốc gia dân tộc
để giải quyết các vấn đề có tính toàn cầu nh: môi trờng, dân số, hay một số vấn đề
chính tri khác Sự phát triển của thế giới đặt ra không ít các vấn đề có tính chất
toàn cầu mà bản thân mỗi quốc gia không đủ sức để giải quyết. Hội nhập tạo ra
khuôn khổ chung cho các quốc gia thành viên liên quan trao đổi, phối hợp sức
mạnh để giải quyết. Bản thân việc hội nhập vào các định chế khu vực và toàn cầu
buộc các quốc gia phải tuân thủ quy chế chung vì vậy nó giảm bớt, đến xoá bỏ
những cơ sở nẩy sinh những vấn đề phức tạp liên quan tới các quốc gia.
Các vấn đề toàn cầu liên quan nhiều quốc gia, việc phối hợp sức mạnh để giải
quyết có thể thực hiện trên nhiều cấp độ khác nhau. Các quốc gia có thể tham gia
trên cơ sở hoạch định những chính sách theo một hớng thống nhất dựa trên các
nguồn lực riêng. Hoặc việc phối hợp thực hiện theo khuôn khổ một trơng trình
Mức độ tham gia hội nhập càng sâu thì khả năng tham gia phối hợp ở cấp độ ch-
ơng trình chung toàn cầu và khu vực càng dễ thực hiện.
+ Toàn cầu hoá tạo ra sự phân cực thành các nớc giầu và các nớc nghèo ngày
càng sâu sắc hơn.
Hiện nay, với sự hoạt động ngày càng mạnh của các công ty xuyên quốc gia
và đa quốc gia ( thế lực chính của toàn cầu hoá chủ yếu là thuộc về các quốc gia
phát triển ) đang đa thế giới vào sự phân hoá giầu nghèo sâu sắc. Rõ ràng là cơ
hội toàn cầu hoá mở ra là không ngang bằng với tất cả các quốc gia. Các thế lực
của quá trình toàn cầu hóa đã mang lại sự giàu có vô độ cho những ngời biết tận
dụng lợi thế của những luồng hàng hoá, dịch vụ đang tràn qua đờng biên giới quốc
gia. Do đó, sự phân cực giàu nghèo giữa các nớc cũng nh trong từng nớc tăng lên.
Chênh lệch giữa ngời giàu và ngời nghèo trên thế giới ngày càng tăng. Trong khi
1,2 tỷ ngời giàu có bằng khoảng 1/5 dân số thế giới, chiếm 86% GDP toàn cầu,
4/5 kim ngạch xuất khẩu, 1/3 đầu t trực tiếp nớc ngoài. Thì 1/5 dân số thế giới
thuộc những ngời nghèo nhất chỉ chiếm 1% GDP của toàn thế giới. Tình hình phân
hoá giàu nghèo rất sâu sắc.
11
Đi liền với sự tăng lên thu nhập của những ngời và nhóm nớc giầu là sự giảm
đi thu nhập ở những nớc nghèo. Ngay ở những nớc đợc coi là cờng quốc về kinh tế
nh Mỹ trong những thập kỷ qua tình trạng bất bìng đẳng cũng gi tăng cùng với sự
gia tăng của toàn cầu hoá kinh tế. Dới thời tổng thống Kennedy lơng của mọt vị
giám đốc chỉ gấp 44 lần mức lơng trung bình của một công nhân, thì hiện nay lên
tới 326 lần.
Mức độ phân hoá giàu nghèo ở các quốc gia đang phát triển trong những thập
niên vừa qua có phần còn găy gắt hơn. Theo thống kê Trung Quốc năm 1994 thì
20% gia đình nghèo nhất chỉ chiếm 4,17% tổng thu nhập, còn 20% gia đình giàu
nhất lại chiếm 50,2%. Sự chênh lệch này còn cao hơn cả Mỹ.
Điều chúng ta cần thấy là bản thân sự phân hoá giàu nghèo sự gia tăng bất
công không phải chỉ gắn với toàn cầu hoá, mà nó có nguồn gốc từ bản chất của
chế độ phân phối thu nhập. Toàn cầu hoá góp phần làm phân hoá sâu sắc hơn tình
trạng giàu nghèo ở chỗ nó đặt các cá nhân, các quốc gia ở những lợi thế, cơ hội
không giống nhau. Và dới sự thao túng của các quốc gia t bản phát triển cùng các
tập đoàn xuyên quốc gia với mục đích tối đa hoá lợi ích tối thiểu hoá lao động đã
dẫn tới việc phân bổ lợi ích của tăng trởng theo xu hớng từ dới lên trên và kết
quả ngời giàu càng đợc lợi, càng giàu, ngời nghèo càng bất lợi, càng nghèo.
Công ty xuyên quốc gia nào muốn đầu t sản xuất thành công tại mỗi nớc thì
đòi hỏi công ty đó phải nắm bắt rõ phong tục tập quán cach giao tiếp ửng sử của
ngời dân nớc khi có ý định đầu t.
Trong toàn cầu hoá, văn hoá dân tộc văn hoá truyền thống có nguy cơ bị xói
mòn về văn hoá chính trị : ý thức hệ phơng tây du nhập ngày càng nhiều, thách
thức an ninh chính trị đối với nhiều quốc gia ngày càng lớn.
Nói tới vấn đề này không thể không nhắc tới ông trùm truyền thông thế giới,
đặc biệt là Mỹ. Thế giới đang chứng kiến sự tập chung ráo riết các phơng tiện
truyền thông, đa tới t tởng đồng hoá và Mỹ hoá. Trong một tình thế nh vậy sự
xuất hiện của xu hớng trống lai là tất yếu. Đây tuyệt nhiên không phải xung đột
giữa các nền văn hoá. Sự xung đột đó là do bàn tay của con ngời, do vấn đề lợi ích
và do mu đồ chính trị của con ngời mà thôi.
12
13
Chơng III
Việt Nam với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
ở vn thuật ngữ hội nhập kinh tế quốc tế xuất hiện và đợc sử dụng phổ biến
trong bối cảnh đảng và nhà nớc đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phơng hoá quan hệ kinh
tế đối ngoại, tích cực phát huy nội lực để tham gia định chế, tổ chức kinh tế thế
giới và khu vực.
HNKTQT là quá trình chủ động gắn kết nền kinh tế thị trờng của từng nớc
với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hoá và mở cửa ở các cấp
độ đơ phơng, song phơng, đa phơng.
I > Quan điểm, chủ trơng của đảng đối với quá trình hội nhập kinh tế
1 Chủ tr ơng của đảng về hội nhập kinh tế quốc tế
+> Trớc thời kỳ đổi mới 1986, VN đã tham gia hội nhập kinh tế nhng tính
chất, hình thức hội nhập có khác hiện nay. Năm 1978 VN đã là thành viên của hội
đồng tơng trợ kinh tế các nớc XHCN ( SEV ) và đã tham gia vào hợp tác kinh tế đa
phơng trong khối này.
Tuy nhiên, thời kỳ này, đờng lối đối ngoại của ta còn chị sự chi phối bởi hệ ý
thức chính trị, đặc biệt có sự đối đầu giữa hai hệ thống XHCN và TBCN
đã ảnh hởng tới xu hớng mở rộng các hình thức trong quan hệ kinh tế đối
ngoại. Do vậy các hoạt động kinh tế của ta từ 1975 đến 1985 các hoạt động kinh tế
đối ngoại nớc ta về cơ bản vẫn cha đem lại kết quả nh mong muốn.
Từ 1986 tình hình thế giới có những biến đổi rất lớn, đờng lối quan hệ kinh tế
đối ngoại của đảng ta dần đợc đổi mới và cụ thể hoá qua các kỳ đại hội đảng.
Đại hội VI (năm1986 ) của đảng đã xác định : Muốn kết hợp sức mạnh của
dân tộc với sức mạnh của thời đại, nớc ta phải tham gia vào phân công lao động
quốc tế, trớc hết và chủ yếu là mở rộng quan hệ phân công, hợp tác toàn diện với
Liên Xô, Lào, Campuchia, các nớc khác trong cộng đồng XHCN, đồng thời tranh
thủ mở rộng quan hệ kinh tế và khoa học kỹ thuật với các nớc thế giới thứ ba, các
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét