Khoa Ngân hàng - Tài chính
TTCK chính thức là một tổ chức có thực thể, là thị trờng minh bạch và đợc
tổ chức cao, có địa điểm nhất định, với những trang thiết bị cần thiết, ở đó các CK
đợc giao dịch theo những quy chế nghiêm ngặt và nguyên tắc nhất định.
TTCK chính thức có thời biểu mua bán rõ rệt, giá cả đợc xác định trên cơ sở
đấu giá công khai có sự kiểm soát của hội đồng chứng khoán quốc gia. Việc mua
bán CK đợc thực hiện tại sàn giao dịch thể hiện bằng các Sở giao dịch chứng
khoán. Chính vì vậy, TTCK tập trung (hay TTCK có tổ chức Organnied
market) còn đợc gọi là Sở giao dịch, quá trình mua bán (The Stock Exchange). Tại
Sở giao dịch, quá trình mua bán chứng khoán diễn ra chỉ thoáng qua bằng động
tác đấu giá. Còn lại chuyện mua bán thực sự sẽ đợc giải quyết ở các công ty môi
giới kinh doanh chứng khoán, có thể có sự tham gia của một số định chế khác. Nó
đóng vai trò là nơi tập trung thông tin và duy trì sự rõ ràng đáng tin cậy để ngời
mua kẻ bán tiện tham khảo, tạo điều kiện cho những nhà đấu t chẳng hề biết nhau
vẫn có thể an tâm làm ăn với nhau. Nó là một định chế đầu mối (đầu mối chớ
không phải trung gian hoặc chợ), là nơi tạo ra niềm tin, sự công bằng, trung thực
và trật tự cho những nhà đầu t chứng khoán. Những nhà đầu t chứng khoán đều
phải tốn tiền để mua những thứ đó từ Sở giao dịch. Nó là nơi tập hợp và chuyển
hoá niềm tin thành những kết ớc cụ thể của những nhà đầu t chứng khoán.
Hoạt động nhộn nhịp của Sở giao dịch có vẻ nh là thứ hào quang chói sáng
lấn át, làm cho ngời ta khó phân biệt. Khi nhắc đến TTCK, hầu nh mọi ngời có
thói quen liên tởng ngay dến một Sở giao dịch (Stock exchange) nào đó. Nói đến
TTCK là ngời ta hình dung đến các sàn giao dịch (tranding floor) đợc vận hành với
những phơng tiện hiện đại, là bàn bạc về một thị trờng diễn biến nhộn nhịp nhng
lại có tiếng là trật tự và trung thực, với sự trợ giúp của các ngành kỹ thuật cao. Thế
nhng hoạt động tại các sàn giao dịch chỉ là một phần của bức tranh toàn cảnh
TTCK. Cùng với cả một hệ thống vận hành đồng bộ, Sở giao dịch là một khâu then
chốt tạo điều kiện cho việc mua bán chứng khoán đợc diễn ra thuận lợi, vì vậy ng-
ời ta gọi chung bối cảnh đó là thị trờng. Các yêu cầu về mua của ngời có tiền(cầu)
và bán của ngời có chứng khoán(cung) sẽ đợc các thông tin môi giới và kinh
doanh chứng khoán đem đến Sở giao dịch để giao mua bán chào bán(bid và offer).
Tại Sở giao dịch; quá trình mua bán đó bằng động tác đấu giá công khai
5
Khoa Ngân hàng - Tài chính
(open/auction). Các nhà môi giới phải la lớn lên giá bid và offer của họ ngay
tại các nhà môi giới là thành viên của một Sở giao dịch mới đợc mua bán chứng
khoán tại sàn giao dịch của Sở giao dịch đó. Và dù Sở giao dịch là nơi rất tập
trung, nó cũng chỉ giữ nhiệm vụ là một khâu trong TTCK.
1.1.2.2 Thị trờng chứng khoán bán chính thức hay thị trờng chứng khoán
bán tập trung (thị trờng OTC)
Đây là thị trờng không có địa điểm tập trung những ngời môi giới, những
ngời kinh doanh CK nh ở Sở giao dịch chứng khoán, không có khu vực giao dịch
diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi, vào thời điểm và tại chỗ mà những ngời có nhu cầu
mua bán CK gặp gỡ nhau. Đây là một loại thị trờng bậc cao, đợc tự động hoá cao
độ, hàng ngàn hãng môi giới trong cả nớc giao dịch mua bán CK với nhau thông
qua hệ thống điện thoại và hệ thốngvi tính nối mạng. Nó không phải là thị trờng
hiện hữu, vì vậy còn đợc gọi là thị trờng giao dịch không qua quầy thị trờng
OTC (Over-the-Counter Market). Thông thờng, đối với các nớc phát triển và các
nớc có TTCK phát triển và các nớc có TTCK phát trin, mới có điều kiện hình
thành loại thị trờngbậc cao này, vì chỉ các nhà đầu t ngoài quỹ đầu t, qũy hu bồng,
các công ty lớn mới có khả năng có hệ thống thông tin liên lạc hiện đại, còn tham
gia nối mạng máy lớn thì rất khó khăn, còn các nhà đầu t nhỏ khó có thể trang bị
cho mình những phơng tiện máy móc thiết bị hiện đại, vì vậy thị trờng OTC cha
thích hợp với các nớc đang phát triển.
Thị trờng OTC có những nét đáng chú ý sau đây:
+Về đặc điểm của thị trờng OTC: thị trờng OTC không có trung tâm giao
dịch, mà giao dịch mua bán CK thông qua mạng lới điện tín, điện thoại. Một điều
quan trọng là các nhà đầu t trên thị trờng OTC không trực tiếp gặp nhau để thoả
thuận mua bán CK nh trong phòng giao dịch của Sở giao dịch chứng khoán, thay
vào đó họ thuê các công ty môi giới giao dịch hộ thông qua hệ thống viễn thông.
Thị trờng OTC là thị trờng thơng lợng, không có vị trí tập trung để trực tiếp gặp
nhau. Việc giao dịch đợc điều khiển thông qua điện thoại và mạng vi tính để liên
lạc giữa những dealer chứ không đối mặt trực tiếp (face- to - face) nh tại SGDCK.
Thị trờng OTC đợc quy định luật lệ bởi Hiệp hội những ngời kinh doanh CK
6
Khoa Ngân hàng - Tài chính
(NASD). Một giao dịch CK trên OTC thờng bắt đầu khi một khách hàng đặt một
lệnh và ngời môi giới (broker) điền vào phiếu lệnh. Sau đó phiếu lệnh đợc chuyển
đến nhân viên giao dịch trên OTC (OTC trader) của công ty để thi hành. Nhân
viên giao dịch sẽ xác định ngời kinh doanh CK (dealer) đề ra thơng lợng các điều
khoản của giao dịch. Một ngời kinh doanh CK trên OTC (OTC dealer), ngời cung
cấp liên tục các giá hỏi mua (bids) và giá chào bán (offers) cho một CK cụ thể thì
đợc cho là tạo một thị trờng (make a market) cho CK đó và đợc gọi là ngời tạo
ra thị trờng (market/ a market). Ngời tạo ra thị trờng mua và bán CK vì lợi nhuận
của chính họ và chấp nhận rủi ro. Nếu ở Sở giao dịch chứng khoán chỉ có một ngời
tạo ra thị trờng cho mỗi loại CK (chuyên gia- specialist) thì trên OTC có thể có
nhiều ngời tạo ra thị trờng cho một loại CK. Một ngời tạo ra thị trờng phải sẵn
sàng bán hay mua cổ phiếu tại giá đa ra (quoted price). Trừ khi công bố giá đợc
định trớc, tất cả các báo giá đợc đa ra từ công ty CK.
Có nhiều loại giao dịch trên OTC, bao gồm (nhng không có giới hạn): cổ
phiếu và trái phiếu công ty; trái phiếu chính quyền địa phơng; chứng khoán Chính
phủ Mỹ; và chứng khoán cơ quan Chính phủ Mỹ (U.S. Government Agency
Securities).Khi việc giao dịch CK này đợc thơng lợng giữa ngời mua và ngời bán,
phải có mạng lới liên lạc nối liền những ngời kinh doanh (dealer) và biểu diễn
những thông tin báo giá. Có 2 hình thức chính của việc liên lạc là bảng điện và in
ấn.
Công ty chứng khoán trên OTC tơng tự nh công ty môi giới hoạt động trên
một Sở giao dịch chứng khoán, do đó nó có tên gọi khác nữa là công ty giao dịch
môi giới. Công ty CK OTC luôn bán các loại CK phi tập trung cho các khách
hàng của mình.
Nhà môi giới trung gian là một loại công ty môi giới nhất định mà khách
hàng của nó là các nhà giao dịch và môi giới trên thị trờng. Các công ty thông báo
cho nhà môi giới trung gian loại CK mà họ muốn mua hoặc muốn bán. Sau đó,
nhà môi giới trung gian thông báo các yêu cầu này qua mạng lới thông tin cho các
thành viên khác biết.
Thị trờng OTC thực hiện vai trò của thị trờng thứ cấp, tức là thực hiện vai
trò điều hoà, lu thông các nguồn vốn, đảm bảo chuyển hoá các nguồn vốn ngắn
7
Khoa Ngân hàng - Tài chính
hạn thành dài hạn để đa vào đầu t phát triển kinh tế. Nhờ có thị trờng OTC, những
ngời có vốn nhàn rỗi tạm thời có thể yên tâm đầu t vào CK vì khi cần tiền họ có
thể bán lại các CK của mình cho các nhà đầu t khác trên TTCK. Có tiền, thấy có
lợi, hoặc thích là mua. Kẹt tiền, thấy không hấp dẫn nữa hoặc không thích thì bán.
Nếu không có thị trờng thứ cấp, có lẽ ngời đầu t mua cổ phần, trái phiếu sẽ còn bị
kẹt dài dài.
Các công ty thực hiện môi giới và kinh doanh CK là cầu nối giữa những ng-
ời đầu t trên thị trờng OTC. Nhờ có các công ty này, quan hệ cung cầu CK trên thị
trờng đợc giải quyết dễ dàng, nhanh chóng và thuận tiện hơn. Các công ty muốn
hoạt động môi giới và kinh doanh CK phải đợc phép của cơ quan có thẩm quyền
(NASD). Thông thờng các công ty CK thờng đợc phép thực hiện cả nghiệp vụ môi
giới và kinh doanh mua bán CK cho chính mình.
Các công ty CK trên thị trờng OTC có mặt ở khắp mọi nơi trên đất nớc, mỗi
công ty chuyên kinh doanh mua bán một số loại CK nhất định. Các công ty CK
giao dịch mua bán CK cho mình và cho khách hàng thông qua việc giao dịch với
các nhà tạo thị trờng về các loại CK đó. Các công ty cũng thực hiện các nghiệp vụ
kinh doanh CK nh: giao dịch mua bán cho chính mình, môi giới mua bán CK cho
khách hàng dịch vụ t vấn đầu t CK, bảo lãnh phát hành.
+ Niêm yết Ck trên thị trờng OTC: các CK buôn bán trên thị trờng OTC
cũng phải đợc niêm yết công khai cho công chúng (các nhà đầu t) biết để cócác
quyết định đầu t. Các CK đợc niêm yết trên thị trờng OTC tơng đối dễ dàng, các
điều kiện đợc niêm yết không quá nghiêm ngặt, chỉ cần đợc phép phát hành là CK
có thể giao dịch trên thị trờng này. Nh vậy, hầu nh tất cả các CK không đợc niêm
yết để giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán đều đợc giao dịch ở đây. Các CK
buôn bán trên thị trờng OTC thờng có mức độ tín nhiệm thấp hơn các CK đợc
niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán. Song, do thị trờng nằm rải rác ở khắp nơi
nên độ lớn của thị trờng khó có thể xác định chính xác đợc, thông thờng khối lợng
buôn bán CK trên thị trờng này là lớn hơn Sở giao dịch chứng khoán. Từ điều kiện
niêm yết thông thờng hơn mà CK của các công ty đợc buôn bán trên thị trờng này
nhiều hơn, thậm chí một số CK đợc niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán cũng
đợc mua bán ở thị trờng này.
8
Khoa Ngân hàng - Tài chính
yết giá trên thị trờng OTC đợc thể hiện trên hệ thống màn hình yết giá tự
động, tuỳ theo độ chuyên sâu của thị trờng và sự hấp dẫn của một loại CK nhất
định mà nó có các loại yết giá nh: yết giá chắc chắn, yết giá phụ thuộc, yết giá có
chủ định.
Từ việc buôn bán giao dịch CK trên thị trờng OTC không tại một địa điểm
nhất định mà thay vào đó là tại các công ty CK và thực hiện các giao dịch thông
qua hệ thống viễn thông, nên việc niêm yết công khai cũng đợc đa dạng và đơn
giản hơn. Giá thị trờng hiện tại của các loại CK phổ biến trên thị trờng OTC đợc
thông bán trên hệ thống màn hình yết giá tự động của NASDAQ.
Ngoài ra, yết giá công khai trên thị trờng OTC còn đợc thực hiện dới các
hình thức ra các yết giá có chọn lọc là các yết giá do NASDAQ tập hợp hàng ngày
các mức giá chào bán và giá đặt mua của một số loại CK trên thị trờng OTC theo
một danh sách có chọn lọc thông qua Uỷ ban yết giá của nó, sau đó nó đợc công
bố trên nhiều tờ báo hàng ngày trong khắp cả nớc. Các thông báo yết giá màu
hồng là do một tổ chức có tên là Phòng yết giá quốc gia (National Quotation
Bureau) xuất bản. Nó xuất bản hàng ngày giá bán buôn các loại CK trên thị trờng
OTC kèm theo đó là tên của những nhà giao dịch hay nhà giao dịch có liên quan.
Các thông báo yết giá màu hồng không đợc phổ biến rộng rãi mà chỉ đợc phân
phối cho các công ty đặt mua. Các công ty niêm yết CK trên thị trờng OTC cũng
phải công khai các thông tin về tình hình của công ty cho công chúng đầu t biết.
Quy trình công khai thông tin, các vấn đề, báo cáo cần công khai cho công chúng
cũng nh các yêu cầu công khai về thông tin công ty cũng tơng tự nh trên Sở giao
dịch chứng khoán.
+ Giao dịch mua bán CK trên thị trờng OTC: hoạt động giao dịch buôn bán
CK trên thị trờng OTC cũng diễn ra khá đơn giản. Khi một khách hàng muốn mua
một số lợng CK nhất định, anh ta sẽ đa lệnh này ra cho công ty CK đang quản lý
tài sản của mình yêu cầu thực hiện giao dịch hộ mình. Thông qua hệ thống viễn
thông, công ty môi giới giao dịch sẽ biết đợc giá chào bán thấp nhất của loại
CK đó. Sau đó công ty này sẽ thông báo lại cho khách hàng của mình và nếu
khách hàng chấp thuận, thì công ty sẽ thực hiện lệnh này và giao dịch của khách
hàng sẽ đợc thực hiện.
9
Khoa Ngân hàng - Tài chính
CK giao dịch trên thị trờng OTC không đòi hỏi điều kiện các tiêu chuẩn nh
giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán. Điều kiện duy nhất là loại CK đó đợc phép
phát hành và cha đợc đăng ký yết giá tại trụ sở giao dịch nào cả. Hầu hết các loại
CK mới phát hành lần đầu đều giao dịch qua thị trờng OTC, sau đó mới xin đăng
ký tại Sở giao dịch chứng khoán.
Quản trị thị trờng OTC là Hiệp hội các nhà kinh doanh CK quốc gia. Hiệp
hội có nhiệm vụ ban hành quy chế. Thành viên của Hiệp hội cũng là thành viên
của TTCK và ngợc lại.
1.2 Hoạt động của NHTM trên TTCK
1.2.1 Các mô hình hoạt động của NHTM trên TTCK
Hiện nay, mô hình NHTM hoạt động trên TTCK, trên thế giới có 2 loại:
* Mô hình chuyên doanh (hay còn gọi là mô hình đơn năng)
Theo mô hình này, các công ty chứng khoán là công ty chuyên doanh độc
lập, các NHTM và các tổ chức tài chính khác không đợc phép tham gia vào hoạt
động kinh doanh chứng khoán. Ưu điểm của mô hình này là hạn chế rủi roc ho hệ
thống ngân hàng do những ảnh hởng tiêu cực của thị trờng chứng khoán, và các
ngân hàng không đợc sử dụng vốn huy động để đầu t vào lĩnh vực chứng khoán:
mặt khác, với sự chuyên môn hoá tạo điều kiện cho thị trờng chứng khoán phát
triển. Điển hình cho mô hình này là các công ty chứng khoán ở Mỹ, Nhật, Hàn
Quốc, có sự tách bạch giữa hoạt động ngân hàng và lĩnh vực chứng khoán. ở Mỹ,
đạo luật Glass-Steagall 1933 bắt buộc hai hoạt động này tách biệt nhau Glass
Steagall chỉ cho phép các ngân hàng thơng mại tiến hành chào bán các loại chứng
khoán chính phủ mới phát hành lần đầu; nhng cấm các tổ chức này bảo lãnh phát
hành chứng khoán doanh nghiệp hoặc tham gia vào hoạt động môI giới chứng
khoán. Tuy nhiên, hiện nay tại Mỹ, ngời ta đề nghị huỷ bỏ đạo luật Glass-Steagall,
cho phép các ngân hàng đợc tham gia vào lĩnh vực chứng khoán. Tháng 7 năm
1988, Cục Dự trữ Liên Bang Mỹ đã cho phép thí điểm ngân hàng J.P Morgan đợc
phép bảo lãnh phát hành tráI phiếu công ty từ tháng 1 năm 1989 và đợc phép bảo
lãnh phát hành cổ phiếu từ tháng 9 năm 1990, tiếp đó dần dần mở rộng cho các
ngân hàng khác.
10
Khoa Ngân hàng - Tài chính
* Mô hình đa năng bao gồm:
Một là mô hình ngân hàng đa năng hoàn toàn: Mô hình này không có sự
tách bạch nào giữa hoạt động ngân hàng và chứng khoán. NHTM không những đ-
ợc hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ mà còn đợc hoạt động trong lĩnh vực chứng
khoán và bảo hiểm. (Các hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán gồm bảo lãnh phát
hành, môI giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu t, t vấn đầu t, tham gia vào lu ký
và thanh toán bù trừ chứng khoán). Nó đợc áp dụng ở các nớc Bắc Âu, Hà Lan,
Thuỵ Sĩ, áo Ưu điểm của mô hình này là ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh
vực kinh doanh, nhờ đó mà giảm bớt rủi roc ho hoạt động kinh doanh chung và có
khả năng về tài chính chịu đựng các biến động của thị trờng chứng khoán. Tuy
nhiên, mô hình đa năng hoàn toàn có một số hạn chế: thị trờng chứng khoán phát
triển chậm vì hoạt động chủ yếu của hệ thống ngân hàng dùng vốn để cấp tín dụng
và dịch vụ thanh toán, do đó ngân hàng thờng quan tâm đến lĩnh vực chứng khoán.
Điều này đã thể hiện sự kém phát triển ở thị trờng chứng khoán Châu Âu tơng
quan với thị trờng chứng khoán Mỹ. Bên cạnh đó, còn nhợc điểm là trong trờng
hợp biến động trên thị trờng chứng khoán, hậu quả có thể tác động tiêu cực đến
lĩnh vực kinh doanh tiền tệ giữa hai loại hình kinh doanh này. Thực tế đã chứng
minh thông qua cuộc đại khủng hoảng 1929-1933, hay vụ phá sản ngân hàng
Barings của Anh năm 1995. Ngợc lại, trong trờng hợp thị trờng tiền tệ biến động
có thể ảnh hởng đến hoạt động kinh doanh chứng khoán của các ngân hàng. Cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ ở TháI Lan là một minh chứng.
Hai là mô hình đa năng một phần: Các ngân hàng muốn hoạt động trong
lĩnh vực chứng khoán phảI thành lập công ty con- công ty chứng khoán , hoạt
động độc lập. Mô hình này đợc áp dụng ở Anh và những nớc có quan hệ gần gũi
với Anh nh Canada, úc. Mô hình này có u điểm các ngân hàng đợc kết hợp kinh
doanh ngân hàng và kinh doanh chứng khoán, do đó tận dụng đợc thế mạnh về tài
chính, kinh nghiệm, mạng lới khách hàng rộng khắp của ngân hàng. Bên cạnh đó,
bởi vì có quy định hoạt động riêng rẽ giữa hai hoạt động trên cho nên hạn chế đợc
rủi ro nếu có sự biến động của một trong hai thị trờng. Đặc biệt, mô hình này phù
hợp với những nớc mới thành lập thị trờng chứng khoán khi mà cần có tổ chức tài
11
Khoa Ngân hàng - Tài chính
chính lành mạnh tham gia vào thị trờng và khi hệ thống luật, kiểm soát còn
nhiều mặt hạn chế.
Mỗi một mô hình có những u điểm và nhợc điểm riêng. Vì vậy, tuỳ vào thể
chế chính trị, đặc điểm nền kinh tế mỗi quốc gia nên chọn cho mình một mô hình
phù hợp nhất để có thể phát huy một cách có hiệu quả nhất vai trò của NHTM đối
với TTCK.
1.2.2 Các nghiệp vụ của NHTM trên TTCK
1.2.2.1 Ngân hàng thơng mại với hoạt động kinh doanh chứng khoán
Kinh doanh chứng khoán là nghiệp vụ mua bán chúng khoán cho chính
mình và tự gánh chịu rủi ro. Với vai trò kinh doanh chứng khoán, các trung gianm
chứng khoán là một thành viên quan trọng của thị trờng chứng khoán, có tác dụng
làm cho hoạt đọng của thị trờng đều đặn, không bị gián đoạn và sôi nổi. Là một
nhà đầu t có tổ chức, hoạt động kinh doanh chứng khoán của NHTM đợc xem là
yếu tố trợ giúp cho việc tăng chất lợng và hiệu quả của thị trờng. Có thể chia hoạt
đọng kinh doanh chứng khoán của NHTM thành hai nhóm, đó là: hoạt động ngân
quỹ và hoạt động đầu t chứng khoán
Hoạt động ngân quỹ là hoạt động của NHTM thờng đầu t ngắn hạn vào các
chứng khoán có tính thanh khoản cao, chi phí giao dịch thấp và có tính ổn định
nh tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhợng đợc chủ yếu nhằm
dự trữ thứ cấp cho nhu cầu thanh toán, nhu cầu dự phòng và nhu cầu tích trữ. Hoạt
động ngân quỹ là cầu nôí quan trọng giữa tín dụng trầm lắng, một bộ phận vốn
trên thị trờng tín dụng sẽ đợc chuyển sang thị trờng chứng khoán thông qua hoạt
động kinh doanh chứng khoán của NHTM và ngợc lại. Việc dịch chuyển vốn giữa
hai thị trờng giúp cho các NHTM có thể sử dụng tối đa các nguồn vốn để sử dụng
có hiệu quả hoạt động. Mặt khác, sự cạnh tranh giữa hai thị trờng này cũng làm
tăng hiệu quả hoạt động của thị trờng tài chính.
Khác với hoạt động ngân quỹ, hoạt động đầu t chứng khoán của NHTM
mang tính đa dạng hơn ít tập trung vào một loạI chứng khoán và với thời hạn đầu
t dàI hơn. Là một định chế trung gian tích cực nhất trong lĩnh vực kinh doanh tiền
tệ, NHTM tham gia trên TTCK với t cách là nhà đầu t và nhà tài trợ cho doanh
12
Khoa Ngân hàng - Tài chính
nghiệp đầu t chứng khoán. NHTM có thể sử dụng các khoản vốn huy động để th-
ờng xuyên tham gia TTCK bằng cách mua các loại cổ phiếu và trái phiếu. Thực
chất của hình thức kinh doanh này là NH luôn luôn mua CK của khách hàng bằng
tiền mặt của mình và bán cho khách hàng không vì mục đích ăn hoa hồng, mà là
lợi nhuận chênh lệch giữa thị giá mua và thị giá bán. Nghĩa là NH sẽ tìm cách mua
CK với giá thấp nhất và bán vơí giá cao nhất có thể. ở các Sở Giao dịch Chứng
khoán khác nhau, thị giá của cùng một loại chứng khoán cũng khác nhau. Giữa
các Sở GDCK có mối liên hệ về thông tin rất chặt chẽ. Do đó, các NH sẽ mua các
CK ở nơi có thị giá thấp để bán ở nơi có thị giá cao để kiếm lời cho tới khi thị giá
đợc cân bằng giữa các thị trờng. Khi mua cổ phiếu NHTM có thể trở thành cổ
đông lớn của công ty cổ phần tham gia vào việc điều hành và kiểm soát công ty.
Bằng nghiệp vụ chuyên môn và kinh nghiệm dày dạn trong kinh doanh tiền tệ,
NHTM có u thế hơn các nhà đầu t khác trong việc nắm bắt thông tin, phân tích
chứng khoán và TTCK đúng lúc đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Ngoài ra, bằng
những phơng tiện sẵn có, ngân hàng có thể đầu t theo danh mục, quản lý danh mục
đầu t, thành lập quỹ đầu t, để đầu t trên TTCK có hiệu quả cao nhất và rủi ro thấp
nhất. Khi mua trái phiếu, NHTM đã thực hiện các chức năng cho vay của mình.
Trái phiếu thờng có độ rủi ro tơng đối thấp nên việc đầu t vào trái phiếu là một
hoạt động thờng xuyên của NHTM. Hơn nữa với tính thanh khoản cao của NHTM
có thể bán trái phiếu bất cứ lúc nào khi cần thu hồi vốn.
1.2.2.2 NHTM với nghiệp vụ huy động vốn trên TTCK
NHTM là một tổ chức kinh doanh, cũng cần có vốn để hoạt động. Vốn của
NHTM có thể hình thành từ nhiều nguồn. Một nguồn vốn quan trọng của NHTM
trong nền kinh tế thị trờng là huy động vốn trên TTCK. Luật pháp từng nớc khác
nhâu, song về cơ bản, cá NHTM có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ
quỹ đầu t đẻ huy động vốn trên thị trờng.
Về phát hành cổ phiếu, đối với các NHTM cổ phần thì đây là một nguồn
vốn đặc biệt quan trọng. Ngân hàng phát hành cổ phiếu ra công chúng để huy
động vốn khi thành lập ngân hàng và trong quá trình hoạt động có nhu cầu tăng
13
Khoa Ngân hàng - Tài chính
vốn ngân hàng có thể phát hành thêm số phiếu mới. Khi phát hành cổ phiếu lần
đầu hay cổ phiếu mới, ngân hàng phải tuân thủ theo các quy định của TTCK.
Về phát hành trái phiếu, NHTM khi có nhu cầu huy động vốn với số lợng
lớn có thể phát hành trái phiếu trung và dài hạn. Để thu hút các nhà đầu t và chiều
theo thị hiếu khách hàng có nhiều loại tráI phiếu NHTM đã ra đời nh: TP có lãI
chuyển đổi, TP chiết khấu, TP có lãI suất thả nổi, TP có lãi suất cố định. Đối với
NHTM sẵn có chuyên môn và cơ sở vật chất, việc phát hành trái phiếu ra công
chúng để huy động vốn đợc xem nh là giải pháp mang tính hiệu quả cao.
Có thể thấy, với tính chuyên nghiệp cao, với uy tín lớn trên thị trờng tài
chính, và các mối quan hệ rộng rãi của NHTM, hoạt động phát hành chứng khoán
của các NHTM có nhiều lợi thế hơn các doanh nghiệp thông thờng khác, bên cạnh
đó NHTM có thể tự đứng ra phát hành làm giảm chi phí huy động vốn. Do vậy,
chứng khoán của các NHTM phát hành dễ dàng đợc chấp nhận hơn so với các
doanh nghiệp khác.
1.2.2.3 NHTM với các nghiệp vụ trung gian trên TTCK
Bản thân NHTM là một định chế tài chính trung gian rất phổ biến và hoạt
động rất tích cực trên thị trờng tài chính, do đó nó góp phần cực kỳ quan trọng
trong hoạt động trung gian trên TTCK. Nghiệp vụ trung gian bao gồm nhiều hoạt
động mà NHTM đều có thể tham gia với t cách của một công ty chứng khoán con.
Công ty chứng khoán phải là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn,
các tổ chức tín dụng. Công ty muốn tham gia kinh doanh chứng khoán phải khai
báo thành lập công ty chứng khoán độc lập.
* Nghiệp vụ môi giới chứng khoán
Đây là dịch vụ ngân hàng rất phát triển ở các nớc trên thế giới đã có TTCK,
gọi là dịch vụ môi giới chứng khoán (Brokerage service). Công ty chứng khoán
thuộc ngân hàng sẽ đảm trách dịch vụ này và mang lại cho ngân hàng những lợi
nhuận từ lệ phí giao dịch hay hoa hồng giao dich rất lớn. Công ty chứng khoán
thuộc ngân hàng có những u thế hơn so với các công ty chứng khoán khác trong
nghiệp vụ môi giới vì:
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét