Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2014

TIỂU LUẬN vấn đề CON NGƯỜI

Phần vận dụng :
Chương 2 Định hướng phát triển nhân cách con người Việt Nam hiện nay
2.1. Quan điểm của đảng ta về vấn đề con người
2.2. Định hướng phát triển nhân tố con người Việt Nam hiện nay
2.3. Những nhiệm vụ cơ bản định hướng phát triển nhân cách con người
Việt Nam hiện nay
5
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI
1.1. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI NGOÀI TRIẾT HỌC
MÁC – LÊNIN
Trong lịch sử triết học, con người là một đề tài được các triết gia triết
học phương Đông và phương Tây quan tâm nghiên cứu. Có rất nhiều quan
điểm khác nhau về con người đã được đưa ra, có thể chú ý đến những quan
điểm sau:
Quan điểm triết học trước Mác, coi con người là một thực thể tự nhiên
– thực thể xã hội. Song họ cũng không vượt qua tính chất siêu hình và thậm
chí còn là duy tâm. Theo triết học Phương Đông với sự chi phối bởi thế giới
quan duy tâm hoặc duy vật chất phác thơ ngây. Điều này được biểu hiện trong
tư tưởng triết học Phật giáo, Nho Giáo, Lão Giáo, quan niệm về bản chất con
người củng thể hiện một cách phong phú. Chẳng hạn như Khổng Tử quy tính
thiện của con người vào năng lực bẩm sinh, do ảnh hưởng bởi phong tục, tập
quán xấu mà bị nhiễm cái xấu, xa rời cái tốt đẹp. Cũng như Khổng Tử, Mạnh
Tử cho rằng phải lấy lòng nhân ái, quan hệ đạo đức để dẫn dắt con người
hường tới các giá trị đạo đức tốt đẹp. Tuân Tử cho rằng bản chất con người
khi sinh ra là ác nhưng có thể cải biến được, qua một quá trình chống lại cái
ác ấy thì con người mới tốt được. Lão Tử cho rằng con người sinh ra từ “
Đạo”. Do vậy con người cần phải sống theo lẽ tự nhiên thuần phát, không
hành động một cách giả tạo, gò ép trái với quy luật tự nhiên.
Cũng như triết học phương Đông, triết học phương Tây cũng có nhiều
quan niệm khác nhau về con người. Đặc biệt là Kitô giáo, họ nhận thức con
người trên cơ sở thế giới quan duy tâm và thần bí. Triết học Hy Lạp cổ đại
bước đầu cũng đã có sự phân biệt con người với giới tự nhiên, nhưng cũng chỉ
là hiểu biết bên ngoài về tồn tại con người. Triết học thời kỳ phục hưng cận
6
đại đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lý tính của con người, xem con người là một
thực thể có trí tuệ.
Nói chung nền triết học thời bấy giờ, vấn đề con người vẫn chưa được
nhận thức đầy đủ cả về bản chất, về mặt sinh học và xã hội. Con người mới
chỉ được nhấn mạnh về mặt cá thể, mà xem nhẹ mặt xã hội. Bởi vì họ đã quy
đặc trưng bản chất con người theo khuynh hướng tuyệt đối hoá những thuộc
tính tự nhiên hoặc thuộc tính xã hội, mà không thấy được vai trò của thực
tiễn. Chẳng hạn, khi phê phán quan điểm duy tâm của Hêghen thì Phơbách
cho rằng vấn đề giữa tư duy và tồn tại là vấn đề bản chất của con người. Vì
chỉ có con người mới có tư duy và sự tồn tại của con người cũng như tư duy
của con người không thể tách khỏi quá trình tâm sinh học. Tuy nhiên,
Phơibách đã mắc phải sai lầm khi ông tuyệt đối hoá mặt sinh học của con
người hoặc tách con người ra khỏi quan hệ hiện thực của xã hội hoặc ông quy
bản chất con người vào tính tộc loại, mà đặc trưng của nó là tình cảm đạo
đức, tôn giáo và tình yêu.
Có thể khái quát rằng, các quan niệm về con người trong triết học
trước Mác, dù đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên luận
hoặc duy vật siêu hình, đều không phản ánh đúng bản chất con người. Họ đều
xem xét con người một cách trừu tượng, tuyệt đối hoá về mặt tinh thần hoặc
thể xác con người, tuyệt đối hoá mặt tự nhiên – sinh học mà không thấy được
mặt xã hội trong đời sống con người. Tuy vậy cũng không thể phủ nhận hết
những thành tựu trong việc phân tích, quan sát con người, đề cao lý tính, xác
lập các giá trị về nhân bản học để hướng con người tới tự do. Đó là những
tiền đề có ý nghĩa quan trọng cho việc hình thành tư tưởng về con người của
triết học Macxít sau này.
1.2. QUAN NIỆM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊ NIN VỀ BẢN CHẤT
CON NGƯỜI
7
1.2.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với mặt
xã hội
Kế thừa các quan điểm tiến bộ trong lịch sử triết học, dựa trên những
thành tựu của khoa học tự nhiên, trực tiếp là thuyết tiến hóa và thuyết tế bào,
triết học Mác đã khẳng định con người vừa là sản phẩm phát triển lâu dài của
giới tự nhiên, vừa là sản phẩm hoạt động của chính bản thân con người. Con
người là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học với yếu tố xã hội – là thực thể
sinh vật – xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là sản phẩm của
giới tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học,
tính loài. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự
tồn tại của con người. Vì vậy giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”.
Con người là một bộ phận của tự nhiên.
Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố
duy nhất quy định bản chất của con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt
của con người với thế giới loài vật là mặt xã hội . Tính xã hội của con người
biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Thông qua hoạt động lao động
sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ nhu cầu
cuộc sống của mình; Hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; Xác lập
quan hệ xã hội. Bởi vậy lao động chính là yếu tố quyết định bản chất xã hội
của con ngươi, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã
hội. Theo Mác, xã hội suy cho cùng là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa
người với người. Con người tạo ra xã hội, là thành viên của xã hội. Mọi biểu
hiện sinh hoạt của con người là biể hiện và là khẳng định của xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát
triển, con người luôn phải chịu sự tác động của ba hệ thống quy luật khác
nhau, nhưng thống nhất với nhau. Bao gồm: Hệ thống quy luật tự nhiên chịu
8
sự quy định của mặt sinh học, hệ thống quy luật tâm lý ý thức hình thành và
vận động trên nền tảng sinh học của con người , hệ thống quy luật xã hội quy
định các quan hệ giữa người với người trong xã hội.
1.2.2. Con người là chủ thể của lịch sử, mục tiêu của sự phát triển xã hội
1.2.2.1. Con người là chủ thể của lịch sử
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại
con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài
của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là: Con người luôn luôn là
chủ thể của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định “ Cái học thuyết duy vật
chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và giáo dục .
cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và
bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Trong tác phẩm “Biện
chứng của tự nhiên”, Ph.Ăngghen cũng cho rằng : “ thú vật cũng có một lịch
sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng
lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự
vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và
không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật,
hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm
ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”.
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực
tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận
động phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện
có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của
mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai
theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của
mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch
9
sử của chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều
kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời
sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con
người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ
thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có
hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó,
không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi
giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người trong
mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động, biến đổi cũng
không phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ
thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con
người. Mặc dù là “tổng hoà các quan hệ xã hội”, con người có vai trò tích cực
trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất
con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận
động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù không trùng khắp)
với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải
làm cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó
chính là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo
khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có
ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh
một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác
nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển
của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con
người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con
người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người
10
1.2.2.2. Con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội
Từ khi xuất hiện đến nay, loài người luôn cháy bỏng hoài bão được
sống tự do, hạnh phúc và không ngừng đấu tranh để hoài bão đó được trở
thành hiện thực. Trong các chế độ xã hội dựa trên quyền sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất (chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản). Các
giai cấp thống trị luôn dùng mọi thủ đoạn để tước đoạt hoặc hạn chế quyền tự
do và hạnh phúc của số đông quần chúng lao động. Cho nên loài người không
ngừng đấu tranh chống lại sự áp bức bất công đó.
Xã hội ngày càng văn minh, đó là xu hướng chủ yếu của xã hội.
Nhưng cho đến nay, bước tiến của nền văn minh vẫn chứa đựng những yếu tố,
những khuynh hướng đi ngược lại lợi ích chung của loài người, nhiều thành
tựu của khoa học – kỹ thuật được sử dụng để huỷ diệt con người. Công
nghiệp hoá học tạo ra năng suất, chất lượng lao động cao, nhưng lại gây ô
nhiễm môi trường, máy móc thay thế sức người nhưng lại đẩy hàng chục triệu
người vào thất nghiệp, xu thế hội nhập mở cửa tạo ra cơ hội phát triển cho
mỗi người, cho các quốc gia nhưng lại nảy sinh những biểu hiện tiêu cực về
lối sống làm mất bản sắc văn hoá dân tộc . Ông Nobel đã phát minh ra thuốc
nổ và nhờ thuốc nổ trở thành giàu có. Nhưng bản thân ông lại không ngờ
thuốc nổ lại sử dụng rộng rãi trong chiến tranh, tàn sát hàng chục triệu người
vô tội. Ân hận về điều đó, ông đã để lại di chúc, đề nghị sử dụng gia tài mà
ông có được do phát minh thuốc nổ, làm giải thưởng cho những ai có công
trình khoa học đem lại hạnh phúc cho con người. Như vậy, Nobel đã đề xuất
một tư tưởng: Văn minh phải hướng tới nhân đạo.
Thế kỷ XXI chắc chắn sẽ có nhiều biến đổi to lớn, khoa học và công
nghệ sẽ có những bước tiến bất ngờ. Vì vậy nhiệm vụ đặt ra cho mỗi người,
mỗi quốc gia là phải làm chủ được các thành tựu của văn minh. Vậy con
người là chủ thể của lịch sử nên chính con người chứ không phải đối tượng
11
nào khác, phải loại trừ những yếu tố ngăn cản tự do, hạnh phúc của con
người, đồng thời thúc đẩy làm biến đổi xã hội theo chiều hướng ngày càng tốt
đẹp hơn. Thế giới hiện nay còn chứa đựng những yếu tố khác đe doạ tự do và
hạnh phúc của con người như đói nghèo, dịch bệnh, thất học, ô nhiễm môi
trường, bất bình đẳng xã hội, nguy cơ khủng bố, chiến tranh…. Do đó mọi
chủ trương chính sách, mọi hành động của cộng đồng quốc tế, của các quốc
gia và hành động của mỗi cá nhân phải nhằm bảo vệ con người, vì tự do hạnh
phúc của con người.
Vì con người là chủ thể của lịch sử nên con người cần được tôn trọng,
cần phải đảm bảo các quyền chính đág của mình, phải là mục tiêu của mọi
tiến bộ xã hội. Chủ Nghĩa Tư bản hiện đại vẫn đang còn sự phát triển. Nhưng
theo qui luật tiến hoá của lịch sử, tương lai sẽ thuộc về một xã hội tốt đẹp
hơn. Một xã hội không có tình trạng áp bức, bóc lột, một xã hội thống nhất và
văn minh với nhân đạo, một xã hội mà trong đó mọi người có cuộc sống tự
do, hạnh phúc, và xã hội đó chỉ có thể là XHCN.
1.2.3. Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội
Con người là một thực thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối
lập với giới tự nhiên, sự tác động qua lại giữa cái sinh học và cái xã hội tạo
thành bản chất của con người. Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con
người, C.Mác đã nêu lên luận điểm nổi tiếng Luận cương về Phoiơbắc: “Bản
chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan
hệ xã hội”.
Theo luận đề trên thì không có con người trừu tượng, thoát ly mọi
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của lịch sử và xã hội. Luận đề đã khẳng định bản
chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con
người. Trái lại, điều đó muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người và giới
12
động vật trước hết là bản chất xã hội và đó cũng là để khắc phục sự thiếu sót
của những nhà triết học trước Mác, không thấy được bản chất xã hội của con
người. Mặt khác, cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ biến, là cái mang tính
quy luật. Vì vậy cần phải thấy được các biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa
dạng của mỗi cá nhân về cả phong cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng
xã hội.
Con người là sản phẩm của giới tự nhiên, song con người không hoàn
toàn phụ thuộc vào giới tự nhiên mà đã vươn lên, tách xa thế giới động vật,
trở thành con người của xã hội, sáng tạo ra lịch sử. Với vai trò là chủ thể của
lịch sử con người phải được tự do, hạnh phúc, phải được phát triển các khả
năng của mình. Nhưng không phải lúc nào và ở đâu con người cũng có đủ
điều kiện để phát triển toàn diện. Vì vậy, một vấn đề đã và đang đặt ra là các
quốc gia nói riêng, nhân loại nói chung, phải coi con người là mục tiêu của sự
phát triển của xã hội.
1.3. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (CNXH) LÀ SỰ PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
CỦA CON NGƯỜI
Xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mọi người có
cuộc sống tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân là mục
tiêu cao cả của XHCN. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “tôi chỉ có một
ham muốn, ham muốn tột bật là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân
tộc ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành”.
Chế độ Chủ Nghĩa Xã Hội đã trải qua bước phát triển quanh co, đầy
thử thách của lịch sử, nhưng đang vững bước đi lên và đạt nhiều kết quả trong
mục tiêu vì sự phát triển toàn diện của con người.
Nước ta là một nước nghèo đang trong giai đoạn quá độ đi lên Chủ
Nghĩa Xã Hội. Tuy vậy, Đảng và nhà nước luôn coi trọng con người, coi con
13
người là mục tiêu của sự phát triển của xã hội, thể hiện ở các nhiệm vụ phát
triển sau:
- Đưa đất nước ra khỏi tình trạng đói nghèo, kém phát triển, nâng cao
rõ rệt đời sống vật chất tinh thần của nhân dân.
- Thực hiện công bằng trong phân phối, thực hiện bình đẳng trong các
quan hệ xã hội.
- Bằng nhiều giải pháp tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Phát
triển kinh tế phù hợp với các vùng, miền nhiều khó khăn, thực hiện chương
trình xoá đói giảm nghèo.
- Thực hiện đồng bộ chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ của
nhân dân.
- Đẩy mạnh hoạt động của thể dục thể thao, nâng cao thể trạng tầm
vóc của con người Việt Nam.
- Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, phấn đấu vì sự công bằng
xã hội. Trong giáo dục, thực hiện: giáo dục cho mọi người, cả nước trở thành
một xã hội văn minh.
Những mục tiêu trên đang được Đảng và nhân dân ta thực hiện nhằm
xây dựng một xã hội: dân giàu nước mạnh ,xã hội công bằng, dân chu, văn
minh.
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét