tiết việc sản xuất trong xã hội. Muốn hiểu rõ vấn đề này, cần xem xét
những trờng hợp thơnừg xảy ra trên thị trờng hàng hoá:
- Giá cả nhất trí với giá trị;
- Giá cả cao hơn giá trị;
- Giá cả thấp hơn giá trị.
Trờng hợp thứ nhất nói lên cung và cầu trên thị trờng nhất trí với
nhau, sản xuất vừa khớp với nhu cầu của xã hội. Do dựa trên chế độ t hữu,
sản xuất hàng hoá tiến hành một cách tự phát, vô chính phủ, nên trờng hợp
này hết sức hiếm và ngẫu nhiên.
Trờng hợp thứ hai nói lên cung ít hơn cầu, sản xuất không thoả mãn
đợc nhu cầu của xã hội nên hàng hoá bán chạy và lãi cao. Do đó, những
ngời sản xuất loại hàng hoá đó sẽ mở rộng sản xuất; nhiều ngời trớc kia
sản xuất loại hàng hoá khác cũng chuyển sang sản xuất loại này. Tình hình
đó làm cho t liệu sản xuất và sức lao động đợc chuyển vào ngành này
nhiều hơn các ngành khác.
Trờng hợp thứ ba chỉ rõ cung cao hơn cầu, sản phẩm làm ra quá
nhiều so với nhu cầu xã hội, hàng hoá bán không chạy và bị lỗ vốn. Tình
hình đó buộc một số ngời sản xuất ở ngành này phải rút bớt vốn chuyển
sang ngành khác, làm cho t liệu sản xuất và sức lao động giảm đi ở ngành
này.
Nh vậy là theo "mệnh lệnh" của giá cả thị trờng lúc lên, lúc xuống
xoay quanh giá trị mà có sự di chuyển t liệu sản xuất và sức lao động từ
ngành này sang ngành khác, do đó quy mô sản xuất của ngành đó mở
rộng. Việc điều tiết t liệu sản xuất và sức lao động trong từng lúc có xu h-
ớng phù hợp với yêu cầu của xã hội, tạo nên những tỷ lệ cân đối nhất định
giữa các ngành sản xuất. Đó là biểu hiện vai trò điều tiết sản xuất của quy
5
luật giá trị. Nhng sản xuất trong điều kiện chế độ t hữu, cạnh tranh, vô
chính phủ nên những tỷ lệ cân đối hình thành một cách tự phát đó chỉ là
hiện tợng tạm thời và thờng xuyên bị phá vỡ, gây ra những lãng phí to lớn
về của cải xã hội.
Quy luật giá trị không chỉ điều tiết sản xuất mà điều tiết cả lu thông
hàng hoá. Giá cả của hàng hoá hình thành một cách tự phát theo quan hệ
cung cầu. Cung và cầu có ảnh hởng đến giá cả, nhng giá cả cũng có tác
dụng khơi thêm luồng hàng, thu hút luồng hàng từ nơi giá thấp đến nơi giá
cao. Vì thế, lu thông hàng hoá cũng do quy luật giá trị điều tiết thông qua
sự lên xuống của giá cả xoay quanh giá trị.
1.2.2. Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất nhằm tăng
năng suất lao động.
Các hàng hoá đợc sản xuất trong những điều kiện khác nhau nên có
giá trị cá biệt khác nhau, nhng trên thị trờng đều phải trao đổi theo giá trị
xã hội. Ngời sản xuất nào có giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị
xã hội thì có lợi; trái lại, ngời có giá trị cá biệt cao hơn giá trị xã hội sẽ ở
thế bất lợi, có thể bị phá sản. Để tránh bị phá sản và giành u thế trong cạnh
tranh, mỗi ngời sản xuất hàng hoá đều tìm cách giảm giá trị cá biệt hàng
hoá của mình xuống dới mức giá trị xã hội bằng cách cải tiến kỹ thuật,
hợp lý hoá sản xuất để tăng năng suất lao động. Lúc đầu, chỉ có kỹ thuật
của một số cá nhân đợc cải tiến, về sau do cạnh tranh nên kỹ thuật của
toàn xã hội đợc cải tiến. Nh thế là quy luật giá trị đã thúc đẩy lực lợng sản
xuất và sản xuất phát triển.
1.2.3. Phân hoá những ngời sản xuất hàng hoá nhỏ, làm nảy sinh
quan hệ kinh tế t bản chủ nghĩa.
Trên thị trờng, các hàng hoá có giá trị cá biệt khác nhau đều phải
trao đổi theo giá trị xã hội. Do đó, trong quá trình sản xuất và trao đổi
6
hàng hoá không tránh khỏi tình trạng một số ngời sản xuất phát tài, làm
giàu, còn số ngời khác bị phá sản.
Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, sự tác động của quy luật giá
trị dẫn đến kết quả là một số ít ngời mở rộng dần kinh doanh, thuê nhân
công và trở thành nhà t bản, còn một số lớn ngời khác bị phá sản dần, trở
thành những ngời lao động làm thuê. Thế là sự hoạt động của quy luật giá
trị dẫn tới hệ phân hoá những ngời sản xuất hàng hoá, làm cho quan hễ t
bản chủ nghĩa phát sinh. Lênin nói " nền tiểu sản xuất thì từng ngày,
từng giờ, luôn luôn đẻ ra chủ nghĩa t bản và giai cấp t sản, một cách tự
phát và trên quy mô rộng lớn".
Trong nền sản xuất hàng hoá t bản chủ nghĩa, quy luật giá trị cũng
tác động hoàn toàn tự phát "sau lng" ngời sản xuất, hoàn toàn ngoài ý
muốn của nhà t bản. Chỉ trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, do chế độ
công hữu về t liệu sản xuất chiếm địa vị thống trị, con ngời mới có thể
nhận thức và vận dụng quy luật giá trị một cách có ý thức để phục vụ lợi
ích của mình.
Nghiên cứu quy luật giá trị không chỉ để hiểu biết sự vận động của
sản xuất hàng hoá, trên cơ sở đó nghiên cứu một số vấn đề khác trong xã
hội t bản chủ nghĩa, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với thực tiễn xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Các đảng cộng sản và nhà nớc xã hội chủ nghĩa coi
trọng việc vận dụng quy luật giá trị trong việc qui định chính sách giá cả,
kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân, thực hiện hạch toán kinh tế v.v
7
Chơng 2
Thực trạng việc vận dụng qui luật giá trị vào
nền kinh tế nớc ta thời gian qua và những giải pháp
nhằm vận dụng tốt hơn quy luật ở nớc ta
trong thời gian tới.
2.1. Thực trạng việc vận dụng quy luật giá trị và vai trò của quy luật
giá trị trong nền kinh tế ở nớc ta thời gian qua
Nớc ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá. Mô hình kinh tế của nớc ta
đợc xác định là: Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hớng XHCN.
2.1.1. Thực trạng việc vận dụng qui luật giá trị ở nớc ta thời gian
qua
Trớc khi đổi mới, cơ chế kinh tế nớc ta hoạt động theo cơ chế tập
trung bao cấp. Nhà nớc lãnh đạo nền kinh tế một cách có kết hoạch mang
nhiều yếu tố chủ quan. Điều này đã phủ nhận tính khách quan của quy luật
giá trị làm triệt tiêu những nhân tố tích cực, năng động của xã hội. Nền
kinh tế rơi vào tình trạng kém phát triển.
Sau khi đổi mới quy luật giá trị đợc nhà nớc vận dụng vào kế hoạch
hoá mang tính định hớng. Nhà nớc phải dựa trên tình hình định hớng giá
cả thị trờng để tính toán vận dụng quy luật giá trị vào việc xây dựng kế
hoạch. Do giá cả hàng hoá là hình thức biểu hiện riêng của giá trị, nhng nó
còn chịu sự tác động của các quy luật kinh tế khác nh quy luật cung cầu.
8
2.1.1.1. Tình hình kinh tế nớc ta trong thời gian qua
a) Tăng trởng kinh tế và đóng góp vào tăng trởng GDP
Nhờ thực hiện đổi mới kinh tế, vận dụng đúng các quy luật kinh tế.
Từ năm 1991 nền kinh tế Việt Nam đạt tăng trởng với tốc độ khá cao,
trung bình 7,67% hàng năm từ 1991-1999, mức kỷ lục là 9,54% năm
1995.
Từ năm 1998, tăng trởng kinh tế có xu hớng giảm do nhiều nguyên
nhân trong đó chủ yếu là yếu kém về cơ cấu và thể chế cũng nh tác động
của cuộc khủng hoảng tài chính châu á.
Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế đã có chuyển dịch tích cực theo h-
ớng giảm tỷ trọng khu vực nông - lâm - ng nghiệp và tăng tỷ trọng của khu
vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Tuy nhiên tốc độ dịch chuyển cơ
cấu GDP còn rất chậm. Năm 2000, khu vực nông - lâm - ng nghiệp trong
GDP vẫn còn chiếm 24,3%. Trong khi đó khu vực công nghiệp xây dựng
là 36,6% và khu vực dịch vụ là 39,1% từ mức 23,5% và 36% tơng ứng của
năm 1991.
Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế, cũng có những chuyển dịch
đáng lu ý là: Sau thời kỳ suy giảm từ năm 1986-1991 tỷ trọng của khu vực
kinh tế nhà nớc tăng nhanh từ 29,25% năm 1991 lên 39,2% năm 1993. Sau
đó giữ ổn định khoảng trên 40% từ 1994-1999. Trong khi đó tỷ trọng của
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong nớc trong GDP liên tục giảm từ
70,75% năm 1991 xuống còn 49,4% năm 1999. Tiềm năng của khu vực
kinh tế t nhân vẫn còn lớn và cha đợc khai thác cao cho tăng trởng kinh tế,
khu vực kinh tế t nhân tập trung chủ yếu ở sản xuất nông - lâm - ng
nghiệp, sản xuất công nghiệp và cung cấp dịch vụ với quy mô nhỏ và rất
nhỏ. Từ năm 1994 khu vực có vốn đầu t nớc ngoài đã có vai trò ngày càng
9
tăng trong phát triển kinh tế Việt Nam. Mặc dù từ năm 1997, đầu t trực
tiếp nớc ngoài vào Việt Nam giảm mạnh, tỷ trọng của khu vực này trong
năm GDP vẫn tăng, chiếm 9,82% năm 1998 và 10,4% năm 1999.
b) Xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá
Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2002 đạt 16,706 tỷ USD, tăng
11,2% so với năm 2001, đạt đợc mục tiêu tăng xuất khẩu năm 2002 là từ
10 đến 12% và cao hơn nhiều so với mức tăng 3,8% của năm 2001. Điều
đặc biệt là sau 6 tháng đầu năm 2002 liên tục giảm xuất khẩu bắt đầu tăng
nhanh dần sau những tháng tiếp theo xuất khẩu hàng hoá của các doanh
nghiệp trong nớc đạt 8,834 tỷ USD bằng 52,9% tổng kim ngạch xuất khẩu,
tăng 7,4% xuất khẩu của các doanh nghiệp nớc ngoài đạt 7,87 tỷ USD,
bằng 47,1% tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 15,8%.
Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá năm 2002 ớc đạt 19,73 tỷ USD tăng
22,1% so với năm 2001. Tơng tự nh xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá liên
tục tăng và nhanh dần vào các tháng cuối năm. Nhập khẩu hàng hoá trong
nớc ớc đạt 13,11 tỷ USD, bằng 66,5% tổng kim ngạch nhập khẩu, tăng
17,3%. Các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài nhập 6,62 tỷ USD, bằng
33,5%. Tổng kim ngạch nhập khẩu tăng 32,8%. Trong tổng kim ngạch
nhập khẩu nguyên liệu, vật liệu, máy móc thiết bị, ô tô xe máy chiếm
97,5% tăng 0,1% hàng tiêu dùng chỉ chiếm 2,5%, giảm 0,1%.
c) Lạm phát
Cùng với tốc độ tăng trởng kinh tế tơng đối cao trong những năm
1990, Việt Nam đã khá thành công trong việc kiềm chế và kiểm soát lạm
phát. Chỉ số giá tiêu dùng giảm từ 67,5% năm 1991 xuống còn 0,1% năm
1996.
10
Sau ba năm liền gần nh không tăng chỉ số giá tiêu dùng năm 2002
tăng 4% so với năm 2001. Điều đó phản ánh mức cầu gia tăng khá mạnh
đồng thời thấy đợc sự ổn định về giá trị của hàng hoá trong nền kinh tế thị
trờng ở nớc ta. Trên thực tế, tổng giá trị hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch
vụ năm 2002 tăng tới 12,85 so với năm 2001. Tuy nhiên có sự khác biệt
khá rõ rệt trong diễn biến giá cả giữa các nhóm mặt hàng.
Giá hàng hoá phi lơng thực thực phẩm tơng đối ổn định. Mức tăng
giá của các mặt hàng này là thấp nhất so với giá cả của các nhóm mặt
hàng khác, đang đợc coi là dấu hiệu tốt trong mối quan hệ giữa hàng công
nghiệp và nông sản vốn bất lợi cho ngời sản xuất nông nghiệp trong những
năm qua.
d) Đầu t và tiết kiệm
Tổng vốn đầu t toàn xã hội giai đoạn 1999 - 2000 đạt khoảng
682.880 tỉ đồng, tăng liên tục từ 6.747 tỷ đồng năm 1990 lên 68.018 tỷ
đồng năm 1995 và 120.600 tỷ đồng năm 2000 (giá hiện hành). Tổng đầu t
xã hội so với GDP cũng tăng nhanh, từ 15,1% năm 1991 lên 28,3% năm
1997 là mức cao nhất trong cả giai đoạn. Từ năm 1998 khi khủng hoảng
tài chính châu á nổ ra, tỷ lệ này có xu hớng giảm chỉ còn 26,3% năm
1999, là một trong những nguyên nhân chính làm giảm tốc độ tăng trởng
kinh tế trong 2 năm 1998 và 1999. Năm 2000 mặc dù tốc độ tăng trởng
kinh tế có dấu hiệu tăng trở lại với mức 6,7% so với mức 4,8% của năm
1999, nhng tổng đầu t xã hội ớc tính chỉ đạt khoảng 27,2% so với GDP.
Trong cơ cấu vốn đầu t, vốn của t nhân và vốn đầu t nớc ngoài ngày
càng chiếm tỉ trọng lớn năm 1990 vốn nhà nớc chiếm 43,8%, vốn của t
nhân và vốn của dân c chiếm 41,5% và vốn GDI chiếm 14,7%. Năm 1995
tỷ lệ tơng ứng của vốn GDI có chiều hớng giảm mạnh, năm 2000 mặc dù
có dấu hiệu tăng trở lại cũng chỉ đạt khoảng 18,6% của tổng dân c xã hội.
11
Đầu t của t nhân trong nớc không còn ở mức thấp mà còn tăng chậm, kết
hợp với xu hớng giảm của FDI đã ảnh hởng xấu tới việc tăng trởng kinh tế.
Từ đó gây sức ép cho đầu t từ ngân sách nhà nớc.
Tiết kiệm trong nớc trên GDP tăng từ 2,9% năm 1990 lên 18,25 năm
1995, năm 1996 có giảm nhẹ và từ 1997 trở đi tăng liên tục, đạt 23,6%
năm 1999. Trong cả thập kỷ 90, tỉ lệ tiết kiệm/GDP tăng liên tục, kích
thích đầu t, từ đó thúc đẩy tăng trởng kinh tế.
Điều này còn thể hiện rõ hơn qua tỷ lệ trong đầu t tăng so với tổng
vốn sử dụng dành cho tiêu dùng, tích luỹ tăng nhanh từ 12,9% năm 1990
lên 24,95 năm 1995 và ớc khoảng 27,95 năm 2000. Tiết kiệm trong nớc
tăng nhanh đã giảm sức ép, phụ thuộc vào vốn đầu t từ bên ngoài, góp
phần quan trọng cho tăng tronửg kinh tế bền vững hơn.
e) Dân số, lao động, việc làm và thu nhập
Một trong những tác động quan trọng nhất của chuyển đối nói chung
và của tăng trởng kinh tế nói riêng là cải thiện chỉ số GDP bình quân đầu
ngời. Theo giá hiện hành, GDP bình quân đầu ngời của Việt Nam đã tăng
từ 222 USD năm 1991 lên 400 USD năm 2000.
Thu nhập của nhóm dân c tăng đã làm thay đổi cơ cấu chi tiêu theo
hớng tích cực. Tỉ lệ chi tiêu dành cho ăn uống giảm từ mức 665 năm 1993
xuống còn 53% năm 1998, đồng thời chi cho sinh hoạt tăng từ 34% năm
1993 lên 47% năm 1998.
So sánh mức thu nhập giữa thành thị nông thôn và các vùng có sự
chênh lệch đáng kể, mức thu nhập ở thành thị đạt 832,5 nghìn đồng/tháng
năm 1999 tăng 17,8% năm so với năm 1996, nếu loại trừ lạm phát thì mức
tăng là 13,1%/năm (theo kết quả của điều tra mức sống dân c năm 1999
của Tổng cục Thống kê). Mức thu nhập ở nông thôn đạt 225 nghìn
12
đồng/tháng tăng 6,2% so với cùng kỳ nếu loại trừ yếu tố giá chỉ còn tăng
1,9%. Nh vậy mức thu nhập ở khu vực thành thị gấp 3 lần mức thu nhập ở
khu vực nông thôn. Mức tăng thu nhập ở khu vực thành thị có xu hớng
ngày càng doãng ra so với mức tăng thu nhập ở nông thôn (17,8%/năm so
với 6,2%/năm). Nếu loại trừ mức tăng giá thì mức thu nhập ở nông thôn
trong 4 năm 1996-1999 hầu nh không tăng.
Năm 1999, dân số Việt Nam là 76,76 triệu ngời đứng thứ 12 trên thế
giới. Trong suốt thập kỷ 90 chính phủ đã thành công thực hiện chơng trình
kế hoạch hoá gia đình, nhờ vậy tỉ lệ tăng dân số tự nhiên đã giảm liên tục,
từ 2,33% năm 1991 xuống còn 1,75% năm 1998.
Tổng số lao động làm việc trong ngành kinh tế tăng từ 30,2 triệu ng-
ời năm 1990 lên khoảng 40 triệu ngời vào năm 2000, trung bình mỗi năm
tăng trên 1 triệu lao động. Mặc dù cơ cấu lao động trong khu vực công
nghiệp - xây dựng và dịch vụ giảm tỷ trọng lao động nông - lâm - ng
nghiệp nhng chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra với tốc độ rất chậm.
Năm 2000 khu vực nông nghiệp vẫn chiếm 62,5% tổng lực lợng lao động
so với tỷ lệ 73,26% vào năm 1991.
Trong giai đoạn vừa qua, việc làm đợc tạo ra trong khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh là chính. Tỷ lệ lao động trong khu vực này tăng liên tục
từ 89,5% năm 1991 lên 91,72% năm 1998, nhng năm 1999 lại giảm còn
90,96%, tức bàng mức của năm 1993. Tỷ lệ lao động trong khu vực nhà n-
ớc tăng lên chủ yếu trong ngành giáo dục, y tế.
Tăng trởng kinh tế trong thập kỷ qua đã có tác động tích cực tới
giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị, từ 9-10% năm 1990 xuống còn
5,8% năm 1996. Từ năm 1997, giảm sút về tăng trởng kinh tế làm cho số
ngời mất việc làm và không tìm đợc việc làm tăng lên, đạt mức cao nhất
13
6,85% năm 1998 và 6,74% năm 1999. Năm 2000, tình hình kinh tế có dấu
hiệu khả quan hơn, nên tính tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm còn khoảng 6,5%.
2.1.2. Vai trò của quy luật giá trị
Quy luật giá trị, cùng với sự tác động của cung, cầu quyết định giá
cả có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế thị trờng. Nó điều tiết sản xuất
và lu thông hàng hoá, thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật. Nh vậy nó đã góp phần
giúp nền kinh tế phát triển mạnh.
Quy luật giá trị tạo ra một môi trờng cạnh tranh khốc liệt. Nếu
không có cạnh tranh thì không có kinh tế thị trờng nên nó dần hoàn thiện
cơ chế thị trờng đang đợc xây dựng ở nớc ta.
Tuy nhiên quy luật giá trị có tác dụng phân hoá những ngời sản xuất
nhỏ, phân hoá giàu nghèo, dẫn dến bất công bằng trong xã hội. Từ đó hình
thành nên mâu thuẫn giữa hiệu quả và công bằng trong nền kinh tế thị tr-
ờng định hớng XHCN ở nớc ta.
2.2. Những giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị ở nớc ta
trong thời gian tới
2.2.1. Điều tiết khống chế quản lý vĩ mô đồng thời có sự giám sát
của xã hội, nhằm khắc phục nhợc điểm và mặt tiêu cực của thị trờng.
Muốn thế nhà nớc cần có những giải pháp nh: Hoạch định chính sách
ngành nghề dài hạn cho nền kinh tế quốc dân. Thực hiện quản lý, giám sát
và bảo vệ trật tự thị trờng. Hoạch định chính sách thu nhập, điều tiết phân
phối thu nhập v.v
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét