Thứ Năm, 6 tháng 3, 2014

Thực trạng của đánh giá trọng yếu và rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán BCTC tại một số công ty kiểm toán Việt Nam

- Là căn cứ tránh những bất đồng với khách hàng.
- Là căn cứ để kiểm soát và đánh giá chất lượng công việc kiểm toán đã và
đang thực hiện.
1.2 Vai trò của việc đánh giá tính trọng yếu và rủi ro trong lập kế hoạch
kiểm toán
Bảng 1:Trình tự các bước trong lập kế hoạch kiểm toán
Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro: Sau khi thu thập những thông tin mang tính
khách quan về khách hàng, trong bước này, kiểm toán viên sẽ căn cứ vào các
thông tin đã thu thập được để đánh giá, nhận xét nhằm đưa ra một chiến lược, kế
hoạch kiểm toán phù hợp.
Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
Chuẩn bị kế hoạch kiểm toán
Thu thập thông tin cơ sở
Thu thập thông tin về nghĩa vụ
pháp lý của khách hàng
Đánh giá trọng yếu, rủi ro kiểm
toán
Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội
bộ và đánh giá rủi ro kiểm soát
Lập kế hoạch kiểm toán toàn diện
và soạn thảo chương trình kiểm
toán
1.3 Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro trong lập kế hoạch kiểm toán BCTC
1.3.1 Khái niệm trọng yếu
Theo Từ điển Tiếng Việt, “Trọng yếu” chỉ một sự vật, hiện tượng then
chốt, thiết yếu. Sự vật, hiện tượng hay địa danh đi kèm với trọng yếu đều mang ý
nghĩa quan trọng. Trong mỗi lĩnh vực khác nhau, trọng yếu mang một ý nghĩa cụ
thể riêng.
Trong lĩnh vực đầu tư, vấn đề trọng yếu được xác định ngay từ đầu khi
quyết định ngành nghề nào cần được đầu tư, những khâu công việc nào là then
chốt nhằm đảm bảo hiệu quả của vốn đầu tư.
Trong lĩnh vực kế toán, khái niệm “trọng yếu” được nhắc đến là một trong
các nguyên tắc kế toán chung được chấp nhận. Nguyên tắc trọng yếu yêu cầu chú
trọng đến những vấn đề mang tính thận trọng, quyết định bản chất và nội dung
của sự vật, sự kiện kinh tế phát sinh, không quan tâm đến những yếu tố có ít tác
dụng trong Báo cáo tài chính.
Trong lĩnh vực kiểm toán, khái niệm trọng yếu thường xuyên được nhắc
đến, được định nghĩa trong rất nhiều các tài liệu về kiểm toán, đặc biệt là kiểm
toán BCTC.
Văn bản chỉ đạo kiểm toán Quốc tế số 25 (IAG 25), do Liên đoàn kế toán
Quốc tế (IFAC) soạn thảo và công bố, định nghĩa: “Trọng yếu là khái niệm về
tầm cỡ, bản chất của sai phạm (kể cả bỏ sót) thông tin tài chính, hoặc là đơn lẻ,
hoặc là từng nhóm, mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét
đoán thì sẽ không chính xác hoặc là sẽ rút ra những kết luận sai lầm”.
Chuẩn mực kiểm toán Quốc tế số 320 (VSA 320) về tính trọng yếu trong
kiểm toán đã định nghĩa: “ Thông tin là trọng yếu nếu việc bỏ sót hoặc sai sót
của thông tin đó có thể ảnh hưởng tới quyết định kinh tế của người sử dụng
BCTC. Tính trọng yếu phụ thuộc vào mức độ quan trọng của các khoản mục hay
sai sót được đánh giá theo bối cảnh cụ thể tạo ra việc bỏ sót hoặc sai sót đó. Vì
Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
thế tính trọng yếu là một ngưỡng hoặc một điểm định tính cơ bản mà một thông
tin hữu ích cần phải có”.
Trong chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320 (VSA 320): “Tính trọng yếu
trong kiểm toán”, trọng yếu được định nghĩa như sau: “Là thuật ngữ dùng để thể
hiện tầm quan trọng của một thông tin (một số liệu kế toán) trong BCTC. Thông
tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hoặc thiếu tính chính
xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng BCTC.
Mức trọng yếu tùy thuộc vào tầm quan trọng và tính chất của thông tin hay của
sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Mức độ trọng yếu là một ngưỡng,
một điểm chia cắt chứ không phải là nội dung của thông tin cần phải có. Tính
trọng yếu của thông tin phải xem xét trên cả phương diện định lượng và định
tính”.
Trong cuộc sống và một số lĩnh vực, thông thường khái niệm trọng yếu
được hiểu một cách tương đồng với khái niệm trọng tâm, dùng để thể hiện sự
quan trọng, thiết yếu. Trọng tâm của một kế hoạch đầu tư hay một chiến lược
kinh doanh sẽ bao gồm những vấn đề trọng yếu cần ưu tiên giải quyết. Tuy nhiên
về bản chất, hai khái niệm này không hoàn toàn tương đồng với nhau, Trọng yếu
là khái niệm liên quan đến bản chất của sự vật, hiện tượng nhiều hơn và mang
tính cố hữu nhiều hơn khái niệm trọng tâm. Trong lĩnh vực kiểm toán, khái niệm
trọng yếu và trọng tâm kiểm toán thể hiện sự phân biệt khá rõ ràng. Khái niệm
trọng tâm kiểm toán thường liên quan đến công việc thực tế của KTV, đó là
những bước công việc cần thiết và quan trọng mà KTV cần phải chú trọng trong
suốt quá trình tiến hành cuộc kiểm toán. Trong khi đó khái niệm trọng yếu
thường liên quan trực tiếp đến từng khoản mục, từng phần hành kế toán, các
thông tin tài chính và bản chất cụ thể của từng khoản mục, phần hành, thông tin
đó. Một khoản mục được đánh giá là trọng yếu khi bản thân nó chứa đựng những
sai phạm gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyết định của người sử dụng BCTC.
Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
Khái niệm “Trọng yếu” bao hàm hai mặt liên quan đến nhận thức đối
tượng: Quy mô hay tầm cỡ (mặt lượng) và tính hệ trọng (mặt chất) của sai phạm
được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Khi xem xét đối tượng cần quan tâm tới
quy mô và tính chất của đối tượng. Cũng từ đây cho ta một sự phân biệt giữa tính
trọng yếu và mức trọng yếu. Thông thường tính trọng yếu được đề cập sẽ gắn
liền với sai phạm. Khi đánh giá tính trọng yếu của một sai phạm tức là đánh giá
sai phạm đó có trọng yếu hay không. Đánh giá tính trọng yếu đối với sai phạm
của nội dung kiểm toán cũng được đánh giá trên hai mặt: Quy mô và tính chất.
Còn mức trọng yếu là một yếu tố định lượng, đó là một ngưỡng (sai lệch tối đa
có thể chấp nhận được) mà nếu sai phạm vượt quá ngưỡng đó thì sẽ làm người
đọc hiểu sai về tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán, ảnh hưởng đến
quyết định của người sử dụng BCTC. Mức trọng yếu được xác định bởi KTV và
nó sẽ thay đổi tùy thuộc vào từng doanh nghiệp khách hàng cụ thể.
Rõ ràng, khái niệm “Trọng yếu” đã đặt ra yêu cầu xác định nội dung kiểm
toán trên cơ sở không bỏ sót các nghiệp vụ có quy mô lớn và có tính hệ trọng. Vi
phạm nguyên tắc này sẽ tạo ra rủi ro kiểm toán.
1.3.2 Khái niệm rủi ro
Theo định nghĩa chung nhất, rủi ro là khái niệm chỉ khả năng mà một sự
kiện không thuận lợi nào đó sẽ xuất hiện. Rủi ro được nhắc đến như một sự ám
chỉ về một điều không chắc chắn, một hậu quả với những tình huống không thể
lường trước được, nó có thể xảy ra, nếu xảy ra có thể không như chúng ta mong
đợi, hoặc mang lại kết quả không tốt đẹp. Rủi ro ứng với sai lệch giữa dự kiến
với thực tế. Trong lịch sử đã có nhiều quan điểm tranh luận về rủi ro. Theo quan
điểm về rủi ro của Pháp, người ta đơn thuần coi rủi ro chỉ liên quan đến các thiệt
hại – rủi ro không đối xứng. Quan điểm của Mỹ thì cho rằng rủi ro liên quan đến
cả thiệt hại và may mắn – rủi ro đối xứng. Còn sau đây là một số quan điểm
Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
được chọn lọc từ cuốn sách “Bảo hiểm quốc tế, nguyên tắc và thực hành” do Học
viện Hoàng gia Anh xuất bản năm 1993:
- Rủi ro là khả năng xảy ra một số sự kiện không may;
- Rủi ro là sự kết hợp các nguy cơ;
- Rủi ro là sự không thể đoán trước một tình huống, một khuynh hướng
dẫn đến kết quả thực tế khác với kết quả dự toán;
- Rủi ro là sự không chắc chắn về tổn thất;
- Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất;
Những định nghĩa trên là các quan điểm khác nhau, tuy nhiên nghiên cứu
các quan điểm này cho thấy giữa chúng có mối liên hệ logic với nhau.
Theo định nghĩa của nguyên tắc chỉ đạo kiểm toán quốc tế IAG 25, Trọng
yếu và rủi ro kiểm toán, “rủi ro kiểm toán là những rủi ro mà kiểm toán viên có
thể mắc phải khi đưa ra những nhận xét không xác đáng về các thông tin tài chính
và đó là các sai sót nghiêm trọng”.
Những nhận xét không xác đáng chủ yếu theo hướng kiểm toán viên sẽ kết
luận là các BCTC được trình bày trung thực và hợp lý, do đó công bố một ý kiến
chấp nhận hoàn toàn trong khi chúng bị sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán gắn
liền với rủi ro kinh doanh, rủi ro mà kiểm toán viên sẽ phải chịu thiệt hại vì mối
quan hệ với khách hàng, đặc biệt trong trường hợp các báo cáo kiểm toán cung
cấp cho khách hàng là sai. Do vậy để giới hạn rủi ro kinh doanh, kiểm toán viên
phải kiểm soát chặt chẽ rủi ro kiểm toán.
1.3.3 Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán và ảnh hưởng của nó đến
phương pháp kiểm toán trong lập kế hoạch kiểm toán BCTC
Trọng yếu và rủi ro có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, VSA 320 “Tính
trọng yếu trong kiểm toán” đã quy định: “Khi tiến hành một cuộc kiểm toán, KTV
phải quan tâm đến tính trọng yếu của thông tin và mối quan hệ của nó với rủi ro
kiểm toán”.
Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
Trong một cuộc kiểm toán, mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan
hệ tỉ lệ nghịch với nhau: mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng thấp
và ngược lại. Mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng phải thấp xuống
vì khi giá trị của sai sót càng cao, mức độ ảnh hưởng càng lớn thì khả năng bỏ qua
sai sót đó phải giảm xuống, do đó rủi ro kiểm toán sẽ thấp. Còn khi mức trọng yếu
không cao, KTV có thể chấp nhận một mức rủi ro kiểm toán cao hơn mà không
gây ra những ảnh hưởng lớn. Mối quan hệ này có ý nghĩa quan trọng trong việc
xác định nội dung, phạm vi, thời gian của các thủ tục kiểm toán thích hợp.
Khi lập kế hoạch kiểm toán, nếu KTV xác định mức trọng yếu chấp nhận
được là thấp thì rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên. Khi đó, KTV có thể:
- Giảm mức độ rủi ro kiểm soát đã được đánh giá bằng cách mở rộng hoặc
thực hiện thêm thử nghiệm kiểm soát để chứng minh cho việc giảm rủi ro kiểm
soát; hoặc
- Giảm rủi ro phát hiện bằng cách sửa đổi lại nội dung, lịch trình và phạm
vi của những thủ tục kiểm tra chi tiết đã dự kiến.
1.3.4 Bản chất đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong lập kế hoạch
kiểm toán BCTC
1.3.4.1 Bản chất đánh giá trọng yếu trong lập kế hoạch kiểm toán BCTC
Tính trọng yếu có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc lập kế hoạch kiểm
toán BCTC. SAS 47 đã quy định: “KTV nên xem xét rủi ro kiểm toán và vấn đề
trọng yếu trước khi lập kế hoạch”.
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, KTV phải đánh giá mức độ trọng
yếu để ước tính mức độ sai sót của BCTC có thể chấp nhận được, xác định phạm
vi của cuộc kiểm toán và đánh giá ảnh hưởng của các sai sót lên BCTC để từ đó
xác định bản chất, thời gian và phạm vi thực hiện các thử nghiệm kiểm toán.
ISA 320 “Tính trọng yếu trong kiểm toán” quy định: “Khi lập kế hoạch
kiểm toán, KTV phải xem xét đến các nhân tố có thể làm phát sinh những sai sót
Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
trọng yếu trong BCTC. Đánh giá của KTV về mức trọng yếu liên quan đến số dư
các tài khoản và các loại giao dịch chủ yếu sẽ giúp KTV xác định được các khoản
mục cần được kiểm tra và quyết định nên áp dụng thủ tục chọn mẫu hay thủ tục
phân tích. Việc đánh giá mức trọng yếu liên quan đến số dư các tài khoản và các
loại giao dịch chủ yếu sẽ giúp KTV lựa chọn được những thủ tục kiểm toán thích
hợp và việc kết hợp các thủ tục kiểm toán thích hợp đó với nhau sẽ làm giảm được
rủi ro kiểm toán tới mức có thể chấp nhận được”.
VSA 300 “Lập kế hoạch kiểm toán” cũng quy định trong giai đoạn lập kế
hoạch kiểm toán tổng thể. KTV phải “xác định những vùng kiểm toán trọng yếu
và xác định mức độ trọng yếu cho từng mục tiêu kiểm toán”.
Ở thời điểm lập kế hoạch kiểm toán ban đầu, kết quả đánh giá mức trọng
yếu và rủi ro kiểm toán của KTV có thể khác với kết quả đánh giá ở các thời
điểm khác nhau trong quá trình kiểm toán. Sự khác nhau này là do sự thay đổi
tình hình thực tế hoặc sự thay đổi về sự hiểu biết của KTV về đơn vị được kiểm
toán dựa trên kết quả kiểm toán đã thu thập được, như: trường hợp lập kế hoạch
kiểm toán trước khi kết thúc năm tài chính, KTV đã đánh giá mức trọng yếu và
rủi ro kiểm toán căn cứ trên dự tính trước kết quả hoạt động và tình hình tài
chính của doanh nghiệp. Nếu tình hình tài chính thực tế và kết quả hoạt động của
doanh nghiệp có sự khác biệt đáng kể so với dự tính, thì việc đánh giá mức trọng
yếu và rủi ro kiểm toán sẽ có những thay đổi.
Như vậy, KTV cần có một sự hiểu biết đầy đủ về cách đánh giá và vận
dụng tính trọng yếu. Việc đánh giá trọng yếu là một công việc xét đoán mang
tính nghề nghiệp của KTV. Để có thể đánh giá tính trọng yếu, KTV cần nhận
thức được cả hai mặt định lượng (giá trị, quy mô) và định tính (chất lượng) của
thông tin mang tính trọng yếu.
Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
Xét trên khía cạnh định lượng, thông tin được coi là trọng yếu khi sai lệch
trên BCTC đạt đến một giá trị nhất định có thể làm thay đổi quyết định của
người sử dụng BCTC.
Xét trên khía cạnh định tính, các sai phạm dù nhỏ nhưng có thể làm nảy
sinh các vấn đề liên quan có tác động dây chuyền, ảnh hưởng nghiêm trọng đến
mức độ hợp lý và mức độ tin cậy của BCTC. Sự phản ánh thông tin đúng đắn
hay không xác đáng của đơn vị có thể làm cho người sử dụng BCTC hiểu sai về
bản chất thông tin của đơn vị.
Khi xem xét tính trọng yếu cần quan tâm tới vấn đề trọng yếu ở mức tổng
thể BCTC và trong mối quan hệ với các số dư tài khoản trên BCTC. Việc xét
đoán tính trọng yếu có thể chịu tác động bởi các yếu tố như các yêu cầu của pháp
luật, các quy định dưới luật, tác động của các bên quan tâm về các vấn đề liên
quan đến số dư, khoản mục cá biệt của BCTC, và các mối liên hệ giữa các khoản
mục đó. Những yếu tố này tạo ra mức trọng yếu khác nhau tùy thuộc vào đối
tượng được kiểm toán. Do đó đánh giá mức trọng yếu là vấn đề rất khó và phụ
thuộc vào sự xét đoán nghề nghiệp của mỗi KTV trên cả quy mô (mặt lượng) và
tính hệ trọng (mặt chất) của sai phạm.
Về quy mô, tính trọng yếu được xem xét trên hai góc độ: quy mô tuyệt
đối và quy mô tương đối. Quy mô tuyệt đối là một con số tuyệt đối thể hiện mức
quan trọng mà không cần nhắc thêm bất kỳ một yếu tố nào khác. Trong thực tế
rất khó ấn định một con số cụ thể cho những nội dung kiểm toán, nhất là khi nội
dung đó có những sai phạm tiềm ẩn. Có thể quan niệm “một triệu USD hoặc một
con số lớn hơn thì luôn coi là con số trọng yếu mà không cần quan tâm tới yếu tố
nào khác”. Tuy nhiên một sai số quy mô nhất định có thể là trọng yếu đối với
một công ty nhỏ, trong khi cũng cùng sai số đó sẽ không trọng yếu với một công
ty lớn hơn. Vì thế, quy mô tuyệt đối thường chỉ sử dụng trong quá trình xem xét,
phát hiện, ít được sử dụng trong đánh giá. Quy mô tương đối là mối tương quan
Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
giữa đối tượng cần đánh giá với một só gốc. Số gốc được xác định tùy thuộc vào
những tình huống cụ thể.
Bên cạnh việc xem xét riêng biệt quy mô quy mô tuyệt đối và quy mô
tương đối còn phải cân nhắc cả ảnh hưởng lũy kế của đối tượng đang xem xét: có
những sai phạm nếu xét riêng biệt, chúng không đủ mức trọng yếu do quy mô
nhỏ. Tuy nhiên nếu cộng dồn tất cả những sai phạm đó sẽ thấy sự liên quan và
tính hệ thống của sai phạm, khi đó sẽ thấy tính trọng yếu của chúng. Quy mô
trọng yếu được xác định tùy thuộc vào đối tượng kiểm toán cụ thể (Báo cáo tài
chính hay từng khoản mục, chu trình) và khách thể kiểm toán (có quy mô khác
nhau)…khi đó quy mô của các khoản mục, nghiệp vụ không chỉ được đánh giá
bằng con số tuyệt đối mà phải đặt trong tương quan với toàn bộ đối tượng kiểm
toán. Mặt khác, việc đánh giá tùy thuộc vào điều kiện cụ thể để xem xét riêng
biệt hay cộng dồn các khoản mục, nghiệp vụ.
Về mặt chất, khái niệm trọng yếu gắn với tính hệ trọng của vấn đề xem
xét. Xem xét mặt định tính chỉ cần thiết khi nó ảnh hưởng đến bản chất của
khoản mục hay vấn đề đang được đánh giá. Muốn đánh giá đúng về trọng yếu,
KTV cần xem xét đến bản chất của khoản mục, nghiệp vụ và sai phạm đối với
khoản mục, nghiệp vụ. Với cùng một quy mô tiền tệ, các gian lận thường được
được chú trọng hơn sai sót bởi các gian lận thường làm người ta nghĩ tới tính
trung thực và độ tin cậy của Ban Giám đốc và những người có liên quan. Do đó,
một hành vi gian lận luôn được coi là trọng yếu bất kể quy mô của gian lận là
bao nhiêu.
1.3.4.2 Bản chất đánh giá rủi ro kiểm toán trong lập kế hoạch kiểm toán BCTC
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, KTV cần đánh giá tổng thể rủi
ro kiểm toán căn cứ vào hiểu biết của KTV về đặc điểm kinh doanh của khách
hàng cũng như tìm hiểu về ngành nghề, quản lý môi trường kiểm soát và hoạt
động. Sự đánh giá như vậy cung cấp thông tin sơ bộ về chiến lược chung đối với
Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B
hợp đồng kiểm toán, nhân sự cần thiết cho nhóm kiểm toán, thời gian kiểm toán
và khuôn khổ đánh giá rủi ro kiểm toán cũng như mức trọng yếu áp dụng ở từng
giai đoạn từng loại nghiệp vụ và từng số dư tài khoản và cuối cùng là thiết kế các
thủ tục kiểm toán thích hợp cho các khoản mục trên BCTC.
1.3.5 Quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro trong lập kế hoạch kiểm toán
BCTC
1.3.5.1 Quy trình đánh giá trọng yếu trong lập kế hoạch kiểm toán BCTC
Trong giai đoạn lập kế hoạch, kiểm toán viên phải đánh giá mức độ
trọng yếu để ước tính mức độ sai sót của BCTC có thể chấp nhận được, xác định
phạm vi của cuộc kiểm toán và đánh giá ảnh hưởng của các sai sót lên BCTC để
từ đó xác định bản chất, thời gian và phạm vi các khảo sát (thử nghiệm) kiểm
toán. Ở đây, KTV cần đánh giá mức trọng yếu cho toàn bộ BCTC và phân bổ
mức đánh giá đó cho từng khoản mục trên BCTC.
1.3.5.1.1 Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu
Mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu và lượng tối đa mà kiểm toán
viên tin rằng ở mức đó các BCTC có thể bị sai nhưng vẫn chưa ảnh hưởng đến
các quyết định của người sử dụng hay nói cách khác đó là những sai sót có thể
chấp nhận được đối với toàn bộ BCTC.
Việc ước lượng ban đầu về tính trọng yếu giúp cho kiểm toán viên lập kế
hoạch thu thập bằng chứng kiểm toán thích hợp. Cụ thể là nếu các kiểm toán
viên ước lượng mức trọng yếu càng thấp, tức là độ chính xác của các số liệu trên
BCTC càng cao, thì số lượng bằng chứng phải thu thập càng nhiều và ngược lại.
Việc ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là một việc làm mang tính chất
xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên. Do đó ước lượng ban đầu về tính trọng
yếu không cố định mà có thể thay đổi trong suốt cuộc kiểm toán nếu kiểm toán
viên thấy rằng mức ước lượng ban đầu là quá cao hoặc quá thấp hoặc một trong
Trần Hồng Phượng-Kiểm toán 46B

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét