Thứ Ba, 4 tháng 3, 2014

Định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở vùng Đồng Bằng Sông Hồng đến năm 2020

Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp
+ Nguồn nhân lực ở độ tuổi lao động, đã tốt nghiệp các trường chuyên
nghiệp (trung cấp, cao đẳng, đại học) thuộc các chuyên môn khác nhau tìm
việc làm.
- Những người trong độ tuổi lao động đang bị thất nghiệp (có nghề hoặc không có
nghề) muốn tìm việc làm, cũng là nguồn nhân lực dự trữ, sẵn sang tham gia vào
hoạt động kinh tế.
1.3. Vai trò nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người, và là một trong những nguồn lực quan
trọng nhất của sự phát triển kinh tế - xã hội. Vai trò đó bắt nguồn từ vai trò của yếu
tố con người.
1.3.1. Con người là động lực của sự phát triển
Bất cứ một sự phát triển nào cũng đều phải có một động lực thúc đẩy. Phát
triển kinh tế - xã hội được dựa trên nhiều nguồn lực: nhân lực (nguồn lực con người),
vật lực (nguồn lực vật chất: công cụ lao động, đối tượng lao động, tài nguyên thiên
nhiên, …), tài lực (nguồn lực về tài chính tiền tệ), …, song chỉ có nguồn lực con
người mới tạo ra động lực cho sự phát triển, những nguồn lực khác muốn phát huy
được tác dụng chỉ có thể thông qua nguồn lực con người. Từ thời xa xưa con người
bằng công cụ lao động thủ công và nguồn lực do chính bản thân mình tạo ra để sản
xuất ra sản phẩm thoả mãn nhu của bản thân. Sản xuất ngày càng phát triển, phân
công lao động ngày càng chi tiết, hợp tác ngày càng chặt chẽ tạo cơ hội để chuyển
dần hoạt động của con người cho máy móc, thiết bị thực hiện. Điều này làm thay đổi
tính chất của lao động từ thủ công sang lao động cơ khí và lao động trí tuệ. Nhưng
ngay cả trong điều kiện đạt được tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại như hiện nay thì
cũng không thể tách rời nguồn lực con người bởi lẽ:
- Chính con người tạo ra những máy móc thiết bị hiện đại đó. Điều đó thể hiện
hiểu biết và chế ngự thiên nhiên của con người.
- Ngay cả đối với máy móc thiết bị hiện đại, nếu thiếu sự điều khiển, kiểm tra
của con người thì chúng cũng chỉ là vật chất. Chỉ có tác động của con người mới phát
động chúng và đưa chúng vào hoạt động.
Vì vậy, nếu xem xét nguồn lực là một tổng thể những năng lực của con người
được huy động vào quá trình sản xuất, thì năng lực đó là nội lực con người. Trong
phạm vi xã hội, đó là một trong những nguồn nội lực quan trọng cho sự phát triển.
SVTH: Nguyễn Thị Vịnh Lớp: Kinh tế phát triển 48B
5
Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp
Đặc biệt đối với những nước có nền kinh tế đang phát triển như nước ta, dân số đông,
nguồn nhân lực dồi dào đã trở thành một nguồn nội lực quan trọng nhất. Nếu biết khai
thác nó sẽ tạo nên một động lực to lớn cho sự phát triển.
1.3.2. Con người là mục tiêu của sự phát triển
Phát triển kinh tế - xã hội suy cho cùng là nhằm mục tiêu phục vụ con người,
làm cho cuộc sống con người ngày càng tốt hơn, xã hội ngày càng văn minh. Nói
cách khác, con người là lực lượng tiêu dùng của cải vật chất và tinh thần của xã hội và
như vậy nó thể hiện rõ nét nhất mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng. Mặc dù mức
độ phát triển của sản xuất quyết định mức độ tiêu dùng, song nhu cầu tiêu dùng của
con người lại tác động mạnh mẽ tới sản xuất, định hướng phát triển sản xuất thông
qua quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường. Nếu trên thị trường nhu cầu tiêu dùng
của một loại hàng hoá nào đó tăng lên, lập tức thu hút lao động cần thiết để sản xuất
ra hàng hoá đó và ngược lại.
Nhu cầu con người vô cùng phong phú, đa dạng và thường xuyên tăng lên, nó
bao gồm nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần, nhu cầu về số lượng và chủng loại hàng
hoá càng ngày càng phong phú và đa dạng, điều đó tác động tới quá trình phát triển
kinh tế - xã hội.
2. Chất lượng nguồn nhân lực và các tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực
2.1. Chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực thể hiện
mối quan hệ cấu thành nên bản chất bên trong của nguồn nhân lực. Hay chính là năng
lực, trình độ về thể lực, trí lực, tinh thần, thái độ, tác phong và đạo đức của các thành
viên hợp thành nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực không những là chỉ tiêu
phản ánh trình độ phát triển kinh tế mà còn là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển về
mặt đời sống xã hội
2.2. Các tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực
2.2.1. Chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khoẻ của nguồn nhân lực
Sức khoẻ là trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội chứ không phải
đơn thuần là không có bệnh tật. Sức khoẻ là tổng hoà nhiều yếu tố tạo nên giữa bên
trong và bên ngoài, giữa thể chất và tinh thần. Sức khoẻ có tác động đến chất lượng
lao động cả hiện tại và tương lai. Người lao động có sức khoẻ tốt có thể mang lại
những lợi nhuận trực tiếp hoặc gián tiếp bằng việc nâng cao sức bền bỉ, dẻo dai và
khả năng tập trung cao trong khi làm việc.
SVTH: Nguyễn Thị Vịnh Lớp: Kinh tế phát triển 48B
6
Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp
Về cơ bản sức khoẻ được đánh giá qua các chỉ tiêu về chiều cao, cân nặng, các giác
quan nội khoa và ngoại khoa. Điều này lại phụ thuộc vào chế độ dinh dưỡng, chăm
sóc sức khoẻ và luyện tập thể dục thể thao
Bên cạnh việc đánh giá tình trạng sức khoẻ của người lao động người ta còn
nêu ra các chỉ tiêu đánh giá sức khoẻ của quốc gia thông qua: Tỷ lệ sinh thô, chết thô,
tỷ lệ tăng tự nhiên, tỷ lệ GDP/đầu người, cơ cấu giới tính, tuổi tác …
2.2.2. Chỉ tiêu phản ánh trình độ văn hoá của người lao động
Trình độ văn hoá của người lao động là sự hiểu biết của người lao động đối
với những kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã hội. Trình độ văn hoá được biểu
hiện thông qua các chỉ số về:
- Số người biết chữ và không biết chữ
- Số người có trình độ tiểu học
- Số người có trình độ phổ thông cơ sở
- Số người có trình độ phổ thông trung học
- Số người có trình độ đại học và trên đại học …
Trình độ văn hoá của nguồn nhân lực là một chỉ tiêu hết sức quan trọng phản
ánh chất lượng của nguồn nhân lực và có tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển
kinh tế - xã hội. Trình độ văn hoá cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một cách
nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn.
2.2.3. Chỉ tiêu phản ánh trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động
Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết, khả năng thực hành về chuyên môn nào
đó, nó biểu hiện trình độ được đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp, cao
đẳng, đại học và sau đại học, có khả năng chỉ đạo quản lý một công việc thuộc một
chuyên môn nhất định. Do đó trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực được đo bằng:
- Tỷ lệ cán bộ trung cấp
- Tỷ lệ cán bộ cao đẳng, đại học
- Tỷ lệ cán bộ trên đại học
Trình độ kỹ thuật của người lao động thường dùng để chỉ trình độ của người
được đào tạo ở các trường kỹ thuật, được trang bị kiến thức nhất định, những kỹ năng
thực hành về công việc nhất định. Trình độ kỹ thuật thường được biểu hiện thông qua
các chỉ tiêu:
- Số lao động được đào tạo và lao động phổ thông
- Số người có bằng kỹ thuật và không có bằng
- Trình độ tay nghề theo bậc thợ
SVTH: Nguyễn Thị Vịnh Lớp: Kinh tế phát triển 48B
7
Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp
Trình độ chuyên môn và kỹ thuật thường kệt hợp chặt chẽ với nhau, thông qua
chỉ tiêu số lượng lao động được đào tạo và không được đào tạo trong từng tập thể
nguồn nhân lực.
2.2.4. Ngoài những chỉ tiêu có thể lượng hoá được như trên chất lượng nguồn nhân
lực còn được xem xét chỉ tiêu về năng lực phẩm chất.
Nội dung của chỉ tiêu này được xem xét thông qua các mặt:
- Truyền thống về văn hoá văn minh dân tộc
- Phong tục tập quán, lối sống
- Tác phong công nghiệp và tính kỉ luật: Trong các hoạt động kinh tế, sự phối hợp
trong công việc giữa các cá nhân trong cùng một tổ chức và giữa các tổ chức với nhau
có xu hướng ngày càng gia tăng và đạt ra yêu cầu cao về tính nhịp nhàng, tính hiệu
quả. Điều này đòi hỏi người lao động phải có tác phong công nghiệp, tinh thần tự chủ
sáng tạo, thái độ hợp tác và tính kỉ luật chặt chẽ.
2.3. Ý nghĩa của nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với tăng trưởng
2.3.1. Theo thuyết vốn nhân lực hiện đại
Lý thuyết vốn nhân lực hiện đại cho rằng nếu các cá nhân đầu tư vào giáo dục và đào
tạo nhằm tích luỹ những kỹ năng và kiến thức (một phần của vốn nhân lực) thì có thể
mang lại lợi ích lâu dài sau đó. Sự đầu tư này cũng mang lại lợi ích kinh tế quốc dân
và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhưng làm thế nào (đầu tư vào) vốn nhân lực có thể
tạo ra sự thịnh vượng cho mỗi quốc gia?
Thứ nhất, giáo dục mang lại cho mỗi cá nhân ở một trình độ nhất định việc làm
và thu nhập. Người có học vấn cao có cơ hội tìm được việc làm tốt hơn và ít có nguy
cơ thất nghiệp. Nếu trình độ học vấn cao hơn thì thu nhập trung bình tăng 5 -15% một
năm (OECD,2001). Ví dụ ở New Zealand và Đan Mạch, những người có bằng cấp đại
học thu nhập cao hơn những người chỉ tốt nghiệp phổ thông khoảng 15% trong suốt
quãng đời làm việc của họ (OECD,2007).
Thứ hai, vốn nhân lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nếu trước kia, sản xuất
phụ thuộc vào cơ bắp, người ta không chú trọng đến việc anh học giỏi đến mức nào,
chỉ cần anh có sức khoẻ là được thì ở giai đoạn công nghiệp hóa với dây chuyền sản
xuất hiện đại thì nhân công cần phải có kiến thức để hiểu việc mình làm, vận hành dây
chuyền sản xuất. Thậm chí trong tương lai, khi tất cả đều được thay thế bằng rôbốt thì
người ta vẫn cần những cái đầu vĩ đại để tạo ra những con rôbốt tốt hơn nhằm gia
tăng sản xuất. Nhiều nghiên cứu đã chỉ rõ trong một tổ chức nếu các cá nhân càng có
SVTH: Nguyễn Thị Vịnh Lớp: Kinh tế phát triển 48B
8
Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp
năng lực thì khả năng tạo ra sự cải tiến, sự sáng tạo trong sản xuất càng cao. Vậy rõ
ràng, chất lượng lao động có yếu tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, vốn nhân lực góp phần tạo nên sự bền vững xã hội. Như trên đã phân
tích, khi có việc làm ổn định và thu nhập hợp lý người ta sẽ cảm thấy thoả mãn với
chính bản thân mình. Người có tri thức thường cởi mở hơn, quan tâm đến sức khoẻ và
vì vậy sống khoẻ hơn và hạnh phúc hơn. Những người có tri thức thích tham gia vào
các hoạt động xã hội và ít phạm pháp hơn…
Có thể nhận thấy, lý thuyết về vốn nhân lực hiện đại nhấn mạnh vào các yếu tố
cá nhân và kinh tế nên nó mang nặng tính tư bản. Vì thế, nó thích hợp với nền giáo
dục của các nước tư bản.
2.3.2. Mô hình tăng trưởng nội sinh
Mô hình tăng trưởng nội sinh là mô hình tăng trưởng mới cố gắng nội hoá sự
tăng trưởng, nghĩa là giải thích tăng trưởng bên trong một mô hình của nền kinh tế.
Trong mô hình tăng trưởng nội sinh, tăng năng suất có được từ tích luỹ vốn
con người hay các hoạt động phát minh sáng chế là yếu tố tạo nên tăng trưởng dài hạn
của thu nhập bình quân đầu người. Do đó, tăng năng suất - “làm việc thông minh
hơn” chứ không phải là “làm việc chăm chỉ hơn” - là yếu tố thiết yếu của tăng trưởng
kinh tế nói chung.
Những nghiên cứu thực nghiệm về nguồn tăng trưởng kinh tế từ đầu thế kỉ
XIX ở các nền kinh tế phương Tây và Nhật Bản cho thấy tăng trưởng kinh tế trong
giai đoạn đầu của cách mạng công nghiệp chủ yếu dựa trên tích luỹ vốn. Tuy nhiên,
sau đó cả Mỹ và Nhật Bản đều đã dịch chuyển được từ tăng trưởng dựa trên tích luỹ
vốn sang tăng trưởng dựa trên tăng năng suất. Trong khi đó, tăng trưởng của Liên
Xô(cũ) là sự tương phản hoàn toàn với Mỹ và Nhật. Có thể nói kế hoạch hoá kinh tế
của Liên Xô là trường hợp điển hình của việc thúc đẩy kinh tế thông qua tối đa hoá
tích luỹ vốn theo định hướng của chính phủ. Tốc độ tăng tỷ lệ vốn – lao động ở Liên
Xô cao hơn nhiều so với các nền kinh tế thị trường, nhưng tốc độ tăng năng suất lao
động lại nhỏ hơn nhiều tốc độ tăng tỷ lệ vốn – lao động. Và kết quả là nền kinh tế
Liên Xô bị “mắc kẹt” bởi quy luật sản phẩm cận biên của vốn giảm dần.
Lại xem xét tăng trưởng ở các nước Đông Á, chỉ trong giai đoạn 1980 – 1995
thu nhập bình quân đầu người của Indonesia, Malaysia, Singapore và Thái Lan đã
SVTH: Nguyễn Thị Vịnh Lớp: Kinh tế phát triển 48B
9
Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp
tăng gấp đôi, so với sự gia tăng 20% ở Mỹ. Một câu hỏi được đặt ra trong nhiều
nghiên cứu là: Từ đâu có sự thần kỳ như vậy? Và trong một nghiên cứu nổi tiếng năm
1995, dựa trên phương pháp hạch toán tăng trưởng, Young đã lập luận rằng tốc độ
tăng trưởng cao ở Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan có được là nhờ gia
tăng đầu tư, tăng tỷ lệ tham gia lực lượng lao động và tăng năng suất lao động (được
phản ánh ở sự gia tăng tỷ lệ lao động có trình độ), chứ không nhờ tiến bộ công nghệ.
Vì vậy, Young khẳng định không có gì thần kỳ trong tăng trưởng ở Đông Á.
Các mô hình tăng trưởng nội sinh, đặc biệt là các mô hình xét đến vốn con
người đã góp phần đáng kể giải thích sự chênh lệch về thu nhập giữa các quốc gia.
Nguyên nhân bắt nguồn từ sự chênh lệch không chỉ ở lượng vốn vật chất (có thể bù
đắp nhờ đầu tư và viện trợ nước ngoài) mà quan trọng hơn là ở vốn con người.
2.3.3. Mô hình tăng trưởng bền vững (Paul Romce)
Trong mô hình tăng trưởng bền vững của Paul Romre, tích luỹ tri thức được xem như
là một biến số kinh tế đảm bảo cho sự tăng trưởng dài hạn. Mô hình này đặc biệt nhấn
mạnh tri thức như một nguồn lực vô hạn và có khả năng gia tăng liên tục ngay cả khi
tất cả các đầu vào cố định. Các nước có sự khác nhau về tỷ lệ tích luỹ vốn nhân lực và
tri thức sẽ có sự khác biệt về thu nhập và tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Kết quả này cũng khẳng định vị trí trung tâm của phát triển giáo dục. Giáo dục làm
tăng vô hạn nguồn vốn tri thức trong quá trình phát triển do đó nâng cao được chất
lượng nguồn lao động, góp phần quan trọng vào việc tăng năng lực sản xuất của nền
kinh tế.
Như vậy, cả ba mô hình trên đều khẳng định ý nghĩa to lớn của nguồn nhân lực và
chất lượng nguồn nhân lực trong tăng trưởng kinh tế dài hạn. Và nhân tố giáo dục đã
được đặt ra là chìa khoá cho việc nâng cao nguồn vốn con người.
2.4. Các nhân tố tác động đến nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Sau khi nghiên cứu ba mô hình kinh tế trên, ta phần nào có thể khẳng định được vai
trò “chìa khoá” của giáo dục – đào tạo đến nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đồng
thời, trong tiến trình phát triển kinh tế cho thấy các nhân tố về y tế, chính sách của
Đảng, Nhà nước, yếu tố thị trường lao động cũng tác động không nhỏ đến chất lượng
nguồn nhân lực cả hiện tại và tương lai.
2.4.1. Giáo dục - đào tạo
Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi
hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của con người theo hướng tích
SVTH: Nguyễn Thị Vịnh Lớp: Kinh tế phát triển 48B
10
Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp
cực. Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách người học bằng những tác động có ý
thức từ bên ngoài, góp phần đáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát triển của con người
trong xã hội đương đại.Giáo dục phổ thông nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản để
phát triển năng lực cá nhân. Giáo dục đại học và giáo dục nghề vừa cung cấp cho
người học kiến thức, vừa cung cấp tay nghề, kỹ năng và chuyên môn
Khái niệm đào tạo thường có nghĩa hẹp hơn khái niệm giáo dục, thường đào
tạo đề cập đến giai đoạn sau, khi một người đã đạt đến một độ tuổi nhất định, có một
trình độ nhất định.Đào tạo đề cập đến việc dạy các kỹ năng thực hành, nghề nghiệp
hay kiến thức liên quan đến một lĩnh vực cụ thể, để người học lĩnh hội và nắm vững
những tri thức, kĩ năng, nghề nghiệp một cách có hệ thống để chuẩn bị cho người đó
thích nghi với cuộc sống và khả năng đảm nhận được một công việc nhất định. Có
nhiều dạng đào tạo: đào tạo cơ bản và đào tạo chuyên sâu, đào tạo chuyên môn và đào
tạo nghề, đào tạo lại, đào tạo từ xa…
Vai trò của giáo dục – đào tạo được thể hiện qua các nội dung sau:
- Giáo dục – đào tạo giúp tăng tri thức cho con người, tăng khả năng sáng tạo
và tiếp thu tiến bộ khoa học của thế giới.
- Giáo dục – đào tạo tạo ra một lực lượng lao động có trình độ, kỹ năng làm
việc với năng suất cao.
- Giáo dục – đào tạo cung cấp thông tin, kiến thức giúp cải thiện tình trạng sức
khoẻ,dinh dưỡng cho con người.
2.4.2. Dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ
Sức khỏe người lao động luôn là một trong những yếu tố quyết định đến chất
lượng và năng suất lao động. Người lao động có sức khoẻ tốt sẽ có sẽ sức bền bỉ, dẻo
dai, khả năng tập trung cao và khả năng tiếp thu nhanh trong công việc.
Thông thường, sức khoẻ của người lao động được đánh giá qua các chỉ tiêu về
chiều cao, cân nặng. Và điều này không chỉ phụ thuộc vào chế độ dinh dưỡng mà còn
phụ thuộc vào các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ thường xuyên, đặc biệt là đối
với những người lao động làm việc trong các môi trường độc hại.
Trên thực tế, các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ còn tác động đến chất
lượng nguồn nhân lực trong tương lai. Việc nuôi dưỡng và chăm sóc sức khoẻ tốt cho
trẻ em là một cách thức giúp cho thế hệ tương lai phát triển thể lực và tinh thần lành
mạnh.
2.4.3. Chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước
SVTH: Nguyễn Thị Vịnh Lớp: Kinh tế phát triển 48B
11
Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp
Các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước có vai trò rất quan trọng tác
động đến sự phát triển nguồn nhân lực. Ngày nay, trong xu hướng hội nhập kinh tế
quốc tế ngày càng mạnh mẽ đòi hỏi mỗi quốc gia đều phải lựa chọn cho mình chiến
lược phát triển nguồn nhân lực phù hợp, nhằm đảm bảo tăng trưởng và phát triển bền
vững. Các chính sách chủ yếu như:
Chính sách khuyến khích phát triển nguồn nhân lực: chủ yếu tạo ra môi trường
pháp lý, môi trường kinh tế - xã hội - tâm lý khuyến khích tất cả các lực lượng tham
gia trong quá trình đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực.
Chính sách phát triển thị trường lao động: Các chính sách về cung, cầu, tiền
lương, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội đối với người lao động cũng có tác động không
nhỏ đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Ngoài ra, các chính sách về dân số kế hoạch hoá gia đình, nâng cao chất lượng
sinh sản cụ thể sức khoẻ cho bà mẹ trẻ em, các chính sách về khám chữa bệnh, bảm
hiểm y tế, bảo hiểm xã hội… đều có tác động tích cực đến chất lượng nguồn nhân lực
hiện tại và tương lai.
2.4.4. Yếu tố thị trường lao động
Thị trường là nơi diễn ra hoạt động trao đổi giữa người mua và người bán, là
môi trường để cân bằng giữa cung và cầu hàng hóa. Đối với thị trường lao động, quy
mô thị trường là sự tổng hợp kết quả của 3 yếu tố: cung lao động, cầu lao động và giá
cả của lao động (tiền công lao động).
Cung lao động là những người có khả năng lao động và mong muốn tham gia
lao động tại mỗi mức giá cả của lao động. Theo cách tiếp cận như vậy cung lao động
được biểu diễn là hàm của tiền lương:
)( WfS
L
=
. Như vậy, tại mỗi mức giá cả của
tiền lương lao động, ta có tương ứng từng lượng cung lao động cụ thể khác nhau.
Ngoài nhân tố tiền lương, các nhân tố khác tác động lên thị trường cung lao động là
dân số, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động.
Cầu lao động là mối quan hệ giữa lượng lao động mà nền kinh tế có nhu cầu
sử dụng với giá cả của lao động. Như vậy, cầu lao động được biểu diễn là hàm phụ
thuộc vào tiền công của lao động:
)( WfD
L
=
. Tại mỗi mức tiền lương khác
nhau sẽ tương ứng với từng mức cầu lao động khác nhau. Sự phụ thuộc giữa lượng
cầu lao động và mức giá cả của lao động là ngược chiều nhau, khi mức tiền công tăng
lên sẽ làm cầu lao động giảm đi một lượng tương ứng. Ngoài ra, ta xét các nhân tố
SVTH: Nguyễn Thị Vịnh Lớp: Kinh tế phát triển 48B
12
Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp
khác ảnh hưởng tới cầu lao động bao gồm: quy mô nền kinh tế, yếu tố kỹ thuật công
nghệ và năng suất lao động.
Tiền công, tiền lương hay giá cả của lao động chính là biểu hiện bằng tiền của
giá trị lao động. Lao động có trình độ cao, năng suất lao động cao thì sẽ được trả
lương cao hơn. Ngày nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển với trình độ khoa học
kỹ thuật hiện đại, xu hướng tiền lương tăng lên thì tất yếu sẽ dẫn đến tăng cầu về lao
động có trình độ và giảm cầu về lao động không có trình độ, đặc biệt là trong các khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài, các KCN, KCX, khu công nghệ cao …
II. ĐBSH và sự cần thiết nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở vùng ĐBSH
1. Khái quát chung về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của vùng ĐBSH
ĐBSH là tên gọi chung cho vùng đất do phù sa sông Hồng và sông Thái Bình
bồi đắp. Đây là một trong hai vùng kinh tế của miền Bắc Việt Nam: Vùng núi và
trung du phía Bắc (gồm Đông Bắc và Tây Bắc) và Đồng bằng sông Hồng.
ĐBSH rộng 14.862,5 km2, chiếm 4,5% diện tích của cả nước với một vùng
biển bao la ở phía Đông và Đông Nam. Dân số là 19654,8 nghìn người (2008), chiếm
22,8% dân số cả nước. Hiện tại cũng như trong tương lai, ĐBSH là một trong những
vùng đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Vùng là cái nôi của văn minh sông Hồng, nền văn minh đồ đồng phát triển rực
rỡ với trống đồng, mũi tên đồng, với nông nghiệp trồng lúa nước. Hiện tại, ĐBSH
bao gồm 10 tỉnh thành: Bắc Ninh, Hà Nam, Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng
Yên, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Vĩnh Phúc.
ĐBSH là một trong những vùng kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt trong phân
công lao động của cả nước. Đây là vùng có vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên thuận
lợi, tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, dân cư đông đúc, nguồn lao động
dồi dào, mặt bằng dân trí cao.
1.1. Điều kiện tự nhiên
Vùng Đồng bằng sông Hồng có toạ độ địa lí là 22
0
- 21
0
30' B và 105
0
30' - 107
0
Đ, nằm ở phía Nam của đường chí tuyến Bắc. Vùng bao gồm đồng bằng châu thổ
màu mỡ, dải đất rìa trung du với một số tài nguyên khoáng sản, tài nguyên du lịch và
vịnh Bắc Bộ giàu tiềm năng.
Vùng có vị trí thuận lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội. Đây là cầu nối giữa
Đông Bắc, Tây Bắc với Bắc Trung Bộ, đồng thời cũng nằm ở trung tâm miền Bắc,
SVTH: Nguyễn Thị Vịnh Lớp: Kinh tế phát triển 48B
13
Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp
trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, lại có hai trung tâm kinh tế lớn là Hà Nội và
Hải Phòng với thủ đô Hà Nội là trung tâm công nghiệp, hành chính, chính trị cao nhất
nước. Ba thành phố lớn là Hà Nội - Hải Phòng - Hạ Long (Quảng Ninh) tạo thành
tam giác kinh tế phát triển mạnh của vùng và có sự lan toả, thu hút với các vùng, tỉnh
lân cận. Vùng lại tiếp giáp với hơn 400km bờ biển, có cửa ngõ thông ra biển qua cảng
Hải Phòng, dễ dàng mở rộng giao lưu với các vùng khác và các nước trong khu vực.
Có thể nói ĐBSH chính là một cánh cửa mở cho Việt Nam ra thế giới, là nơi tiếp
giáp giữa Đông Nam Á và Đông Bắc Á.
Như vậy, ta có thể thấy vùng ĐBSH “là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về
chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của cả nước”.
Ngoài ra, vùng còn có nguồn tài nguyên thiên nhiên khá đa dạng, đặc biệt là
đất phù sa sông Hồng. ĐBSH là nơi có nhiều khả năng để sản xuất lương thực, thực
phẩm. Trên thực tế, đây là vựa lúa lớn thứ hai của cả nước, chỉ sau ĐBSCL.
Được sự bồi đắp của hai hệ thống sông lớn là hệ thống sông Hồng và hệ thống sông
Thái Bình nên nguồn nước rất phong phú. Cả nguồn nước trên mặt lẫn nguồn nước
ngầm đều có chất lượng rất tốt.
Các nguồn tài nguyên có giá trị đáng kể là các mỏ đá (Hải Phòng, Hà Nam,
Ninh Bình), sét cao lanh (Hải Dương), than nâu (Hưng Yên), khí tự nhiên (Thái
Bình). Về khoáng sản thì vùng có trữ lượng lớn về than nâu, đá vôi, sét, cao lanh.
Đặc biệt, mỏ khí đốt Tiền Hải đã được đưa vào khai thác nhiều năm nay và đem lại
hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, vùng lại thiếu nguyên liệu cho việc phát triển công
nghiệp, phần lớn nguyên liệu phải nhập từ các vùng khác. Một số tài nguyên của
vùng bị suy thoái do khai thác qua mức.
1.2. Đặc điểm dân cư, xã hội
ĐBSH là khu vực dân cư đông đúc nhất cả nước và quần tụ trong một môi
trường xã hội làng, xã rất đặc trưng, một miền văn hoá giàu bản sắcvà độc đáo trong
nước Việt Nam thống nhất.
SVTH: Nguyễn Thị Vịnh Lớp: Kinh tế phát triển 48B
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét