Đối với các quốc gia trên thế giới hoạt động xuất nhập khẩu đóng vai trò
quan trọng, không thể thiếu đợc trong mục tiêu phát triển kinh tế đất nớc. Mỗi
quốc gia trên đều có điều kiện sản xuất, tài ngyên, thiên nhiên và trình độ kỹ thuật
khác nhau vì thế một quốc gia không thể sản xuất các mặt hàng để đáp ứng nhu
cầu của ngời dân, mà sẽ tập trung chuyên môn hoá vào sản xuất các mặt hàng đem
lại lợi thế cao hơn. Hoạt động xuất khẩu sẽ giúp quốc gia đó khai thác triệt để lợi
thế so sánh và mở rộng khả năng tiêu dùng của nớc nhập khẩu. Xuất khẩu là cơ sơ
của nhập khẩu, là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn, và là phơng tiện
thúc đẩy phát triển kinh tế . Mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện
cho nhập khẩu và phát triển cớ sở hạ tầng. Luôn luôn coi trọng và thúc đẩy các
ngành kinh tế hớng vè xuất khẩu, khuyến kích các thành phần kinh tế mở rộng
xuất khẩu còn giải quyết việc làm và chuyển đổi cơ cấu kinh tế . Vì vậy, vai trò
của xuất khẩu thể hiện ở những điểm sau:
a, Xuất khẩu tạo nguồn vốn quan trọng để thoả mãn nhu cầu nhập khẩu và
tích luỹ phát triển sản xuất phục vụ công nghiệp hoá đất n ớc.
Công nghiệp hoá đất nớc theo những bớc đi thích hợp là con đờng tất yếu để
khắc phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển. Để công nghiệp hoá đất nớc
trong thời gian ngắn đòi hỏi phải có số vốn lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể đợc hình thành từ nhiều
nguồn nh: liên doanh đầu t nớc ngoài , vay nợ , viện trợ, thu từ hoạt động du lịch,
từ hoạt động xuất khẩu. Xong các nguồn vốn này rồi cũng phải trả nợ bằng cách
này hay cách khác ở thời kỳ sau này. Vì vậy xuất khẩu là nguồn vốn quan trọng
nhất để thoả mãn nhu cầu nhập khẩu những t liệu sản xuất thiết yếu phục vụ cho
công nghiệp hoá và hiện đại háo đất nớc. Bài học kinh nghiệm của một số nớc
trên thế giới tăng trởng chri dựa trên nguòon vốn vay nợ, viện trợ và đầu t nớc
ngoài đã phải trả một giá đắt đã ming chứng cho điều này. Hơn nữa, trong thực tế
xuất khẩu và nhập khẩu có mối quan hệ mật thiết với nhau, vừa là kết quả vừa là
tiền đề của nhau. Đẩy mạnh xuất khẩu là để tăng cờng nhập khẩu để nó mở rộng,
tăng nhanh khả năng xuất khẩu.
5
b, Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế h ớng
ngoại:
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh
mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tấe sang nền kinh tế hớng ngoại trong quá trình công
nghiệp hoá ở nớc ta hiện nay là phù hợp với xu hớng phát triển kinh tế thế giới. Có
hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế.
Một là, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vợt
quá nhu cầu nội địa. Trong trờng hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển
nh ở nớc ta, sản xuất về cơ bản cha đủ để tiêu dùng nếu chỉ thụ động ở sụ d thừa
của sản xuất thì xuất khẩu vẫn cứ nhỏ bé và chậm chạp. Hơn nữa, nó không góp
phần chuyên môn hoá sản xuất và thuíc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng
có lợi.
Hai là, coi thị trờng và đặc biệt là thị trờng thế giới là hớng quan trọng để tổ
chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể
hiện ở:
Xuất khẩu tạo điều kiện cho ngành liên quan có điều kiện phát triển thuận
lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu sẽ tạo điều kiện cho việc
phát triển ngành sản xuất nguyên liệu nh bông hay thuốc nhuộm. Sự phát triển của
công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu (dầu thực vật, chè ) kéo theo sự phát
triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị để sản xuất ra các sản phẩm đó.
Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trờng tiêu thụ, cung cấp đầu vào cho sản
xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nớc.
Xuất khẩu tạo những tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm đổi mới thờng xuyên
năng lực sản xuất trong nớc. Nói cách khác, xuất khẩu là điều kiện tạo thêm vốn
kỹ thuật, công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại
hoá nền kinh tế nớc ta.
6
Thông qua xuất khẩu, hàng hoá Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh
trên thị trờng thế giới về giá cả và chất lợng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải tổ
chức lại sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trờng. Để đáp ứng yêu cầu cao của thị tr-
ờng thế giới về quy cách, chất lợng sản phẩm, muốn thắng lợi trong cạnh tranh thì
một mặt sản xuất phải đổi mới trang thiết bị công nghệ, mặt khác ngời lao động
phải nâng cao tay nghề học hỏi kinh nghiệm sản xuất tiên tiến trên thế giơí. Hơn
nữa, nhu cầu sở thích của ngời tiêu dùng ngày càng đa dạng và hết sức phong phú,
muốn xuất khẩu đợc hàng hoá đoì hỏi phải có sự đổi mới về mẫu mã, chất lợng,
kiểu dáng, kích thớc của hàng hoá.
Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp luôn luôn đổi mới và hoàn thiện
công tác quản lý sản xuất, kinh doanh nâng cao chất lợng sản phẩm hạ giá thành.
c, Xuất khẩu góp phần tích cực vào giải quyết công ăn việc làm và cải thiện
đời sống nhân dân.
Xuất khẩu góp phần tích cực vào giải quyết công ăn việc làm. Các ngành
công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến hàng xuấ khẩu, các khu công nghiệp sản
xuất hàng xuất khẩu đã tác động tích cực đến đội ngũ lao động không chỉ gia tăng
về số lợng lao động có việc làm mà từng bớc nâng cao chất lợng đội ngũ lao động
để đáp ứng với yêu cầu công nghiệp hoá. Sự cạnh tranh gay gắt trên thị trờng quốc
tế đối với mặt hàng xuất khẩu đã khiến cho Việt nam cũng đã bắt đầu hình thành
và đang có xu hớng phát triển ngày càng mạnh đội ngũ lao động gồm cả trí thức,
công nhân kỹ thuật cao trong một số ngành kinh tế kỹ thuật hiện đại nh dầu khí,
điện tử tin học, cơ khí chính xác, bu chính viễn thông Phát triển các ngành sản
xuất hàng xuất khẩu cần nhiều lao động là một trong những con đờng chắc chắn
nhất để tạo nên nhiều công ăn việc làm và thu đợc nhiều ngoại tệ mà không phải
sử dụng tài nguyên quí hiếm. Dựa vào việc lập hàm hồi qui về mối quan hệ giữa
xuất khẩu và việc làm cho thấy nếu xuất khẩu tăng lên 1% so với năm gốc thì chỗ
việc làm cho ngời lao động sẽ tăng lên ít nhất 0,4% so với năm gốc. Xuất khẩu tạo
công ăn việc làm và làm tăng thu nhập cho ngời lao động không chỉ ở các vùng đô
thị, các khu chế xuất, các xí nghiệp công ty liên doanh đầu t nớc ngoài mà đã lan
7
rộng đến nhiều vùng nông thôn. Do vậy, xuất khẩu đã góp phần cải thiện đời sống
của nhân dân và từng bớc xoá bỏ chênh lệch mức sống thực tế giữa các tầng lớp
dân c ở nhiều khu vực lãnh thổ khác nhau. Hơn nữa, xuất khẩu còn tạo nguồn vốn
nhập khẩu về vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ cho đời sống, và đáp ứng ngày
càng phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
d, Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại
của n ớc ta.
Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại đã làm cho nền kinh tế nớc
ta gắn chặt với phân công lao động quốc tế. Thông thờng hoạt động xuất khẩu ra
đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác nên nó thúc đẩy các quan hệ
này phát triển. Chẳng hạn, xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ
tín dụng đầu t vận tải quốc tế Đến lợt nó chính xác các quan hệ kinh tế đối
ngoại lại tạo điều kiện tiền đề mở rộng xuất khẩu. Nh việc ký kết các hiệp định và
tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực lại khuyến khích hoạt động xuất
khẩu.
Nh vậy, nhận thức đợc vai trò của xuất khẩu, đối với nớc ta, một quốc gia
đang chuyển sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc thì hoạt động
xuất khẩu đợc đặt ra cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy toàn bộ
nền kinh tế xã hội. Không thể nào xây dựng đợc một nền kinh tế hoàn chỉnh nếu
chỉ dựa trên nguyên tắc"Tự cung tự cấp", vì nó đòi hỏi rất tốn kém về vật chất, thời
gian và cũng rất khó mà đạt đợc hiệu quả nh mong đợi. Vì vậy, cần phải đẩy mạnh
nâng cao hiệu quả của hoạt động mở rộng ngoại thơng, trên cơ sở" Hợp tác bình
đẳng không phân biệt thể chế chính trị và đôi bên cùng có lợi" nh nghị quyết của
đại hội Đảng lần thứ VII đã khẳng định.
Hơn nữa, nớc ta còn đang là một trong những nớc có trình độ phát triển kinh
tế thấp, những nhân tố thuộc tiềm năng là: tài nguyên thiên nhiên và lao động rẻ.
Còn những nhân tố thiếu là: vốn, kỹ thuật, thị trờng và khả năng quản lý thì việc
mở rộng quan hệ buôn bán giữa nớc ta với nớc ngoài là điều kiện quan trọng thúc
đẩy sự phát triển nền kinh tế. Muốn phát triển nền kinh tế ta phải dựa vào sự đầu t
8
về vốn, kỹ thuật từ nớc ngoài, trong đó kết hợp tận dụng nguồn lao động dồi dào,
giá rẻ cùng với nguồn tài nguyên phong phú để tăng hiệu quả sản xuất, hấp thụ
khoa học kỹ thuật hiện đại nhằm hớng tới xuất khẩu các sản phẩm có lợi thế đa ra
thị trờng quốc tế thu đợc ngoại tệ, tạo công ăn việc làm cho ngời lao động, ổn định
và phát triển nền kinh tế, biến nớc ta trỏ thành một mắt xích quan trọng trong sự
phân công và chuyên môn hoá lao động trên thế giới hiện nay.
1.2-/ Xu thế hội nhập AFTA
1.2.1-/ Xu thế toàn cầu hoá và liên kết kinh tế khu vực
Trong mấy thập niên qua, thế giới trải qua khong ít biến động to lớn mà hệ
quả là diện mạo đời sống kinh tế chính trị, xã hội trên trờng quốc tề đã và đang có
những thay đổi hết sức căn bản, toàn diện và sâu sắc, trật tự kinh tế thế giới cũng
đã có những biến đổi so với thời kỳ trớc "Chiến tranh lạnh". Hiện tợng này đa đến
xu thế hội nhập và toàn cầu hoá giữa mọi quốc gia, dân tộc, đặc biệt là sự giao
thoa về kinh tế ngày càng bức xúc. Một mặt, luôn tạo thêm nguồn lực cần thiết
thúc đẩy toàn cầu hoá, mặt khác, cũng làm nảy sinh không ít trở ngại cho quá
trình này. Việc xem xét trên bình diện chung nhất quá trình hội nhập kinh tế khu
vực và thế giới của từng quốc gia, trong đó có Việt Nam, dới sự tác động của toàn
cầu hoá là vấn đề không kém phần bức xục hiện nay.
Trớc hết, kể từ sau thời kỳ "Chiến tranh lạnh" với dấu mốc quan trọng là sự
tan rã của Liên Xô cũ và sự suy yếu trên một số mặt của Hoa Kỳ (so voí các quốc
gia đối thru và đồng minh khác), thế gới đã chuyển từ hai cực luôn đối đầu sang
xu thế đối thoại, tìm điểm tơng đồng cần thiết, sẵn sàng thoả hiệp để gắn hết mọi
lợi ích kinh tế, chính trị và văn hoá theo mục đích chung. Theo đó việc truyền bá
văn hoá, tri thức thông tin và mọi phơng thức sinh tồn ngày càng mang tính toàn
cầu. Hơn nữa, sản xuất và dịch vụ có xu thế quốc tế hoá rõ rệt. Cuộc cánh mạng
khoa học và công nghệ đạt tới giai đoạn cao đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ quá
trình chuyên môn hoá và hợp tác hoá giữa các quốc gia làm cho lực lợng sản xuất
đợc quốc tế hoá cao độ. Thực ra sự xuất hiện rất sớm của các công ty xuyên quốc
gia ở một số nớc phát triển đã khởi động cho sự ra đời hệ thống sản xuất toàn cầu
9
vào nửa đầu thế kỷ XX, phát triển nhanh vào sau chiến tranh thế giới thứ hai và
đến cuối thập niên 70 thì trở thành làn sóng lớn, dần dần loại trừ, thay thế cơ cấu
sản xuất trong nớc. Đến nay chính các công ty xuyên quốc gia cũng luôn phải đổi
mới hàng ngày đểv mở rộng ảnh hởng trực tiếp, thúc đẩy chu chuyển vốn đầu t đi
kèm sát nhập và hợp nhất để lớn mạnh lên nhanh chóng. Thập niên 80 và 90 đợc
ghi nhận bởi hiện tợng nổi trội về đầu t quốc tế vợt quá mức tăng trởng mậu dịch
quốc tế.
Đáng chú ý là thị trờng tài chính quốc tế phát triển hết sức nhanh chóng đã
trở thành một sức mạnh kinh tế xuyên quốc gia. Từ cuối thập niên 70, kỹ thuật tin
học bắt đầu đợc ứng dụng rộng rãi làm cho việc chuyển tải thông tin đợc dễ dàng
và nhanh chóng; giúp cho nghiệp vụ tài chính quốc tế phát triển mạnh mẽ, thu hẹp
dần phạm vi quản chế cứng nhắc thị trờng tiền tệ theo từng quốc gia năng lực
khống chế của ngân hàng trung ơng đối với gía trị đồng bản tệ ngày càng gảim
sút. Thị trờng tài chính thế giới phát triển mạnh cũng thúc đẩy mạnh theo quá trình
quốc tế hoá sản xuất và dịch vụ, bởi lẽ các công ty xuyên quốc gia có thể tập trun
và di chuyển một cách thuận lợi trên thị trờng tài chính thế giới mà khộng bị
khống chế. Các ngân hàng và các công ty giao dịch chứng khoán thờng tổ chức
thành công ty độc quyền dạng Xanh-đi-ca, giúp đỡ nhau và cạnh tranh nhau. Các
ngân hàng lớn đều đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện ở các trung tâm tài
chính chủ yếu cuả thế giới.
Cuối cùng, vấn đề môi trờng cũng trở thành nan giải, mang tính toàn cầu do
hậu quả của công nghiệp hoá mang tính toàn cầu phát triển đến mức khó kiểm
soát gây nên tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng. Tính nghiêm trọng đáng báo động
còn ở chỗ không một quốc gia nào có khả năng một mình giải quyết đợc vấn đề ô
nhiễm môi trờng mang tính toàn cầu này.
Rõ ràng, trong khung cảnh mang tính toàn cầu hoá nh vậy, hội nhập kinh tế
thế giới bằng cánh hình thành các liên bang kinh tế khu vực và toàn cầu là một tất
yếu khách quan đối với bất kỳ một nớc nào trên con đờng phát triển trong điều
kiện mới ngày nay.
10
Liên kết kinh tế khu vực là bao gồm các mối liên kết kinh tế và vị trí địa lý
để hình thành các khối liên kết kinh tế, các khu vực kinh tế hay còn gọi là khu vực
hoá nền kinh tế nh khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), khu vực mậu dịch tự
do Bắc Mỹ (NAFTA), liên minh châu Âu (EU), hiệp ớc thị trờng chung Nam Mỹ
(MERCOSUR)
Đặc điểm chung nhất của các tổ chức kinh tế khu vực là quan hệ láng giềng
gần gũi, có hệ ngôn ngữ và truyền thống văn hoá tơng tự, có tài nguyên, lao động,
trình độ kinh tế kỹ thuật gần giống nhau. Trên cơ sở gia nhập một cách tự nguyện,
các tổ chức kinh tế này lập ra quy chế và thủ tục cần thiết bảo đảm mối quan hệ
giữa các thành viên trong khu vực và quan hệ với nền kinh tế thế giới.
Tính u việt của các tổ chức kinh tế khu vực là; thực hiện chính sách u đãi
trong nội bộ các thành viên về đầu t tài chính, phát triển kỹ thuật, giải quyết việc
làm, đào tạo tay ngề trao đổi hàng hoá Tổ chức kinh tế khu vực còn thực hiện
chế độ mậu dịch tự do giữa các nớc hoặc giảm thuế đối với các lĩnh vực sản xuất
mũi nhọn, tạo điều kiện phát triển cho mọi thành viên, bảo đảm lợi ích cho từng
thành viên và sự vững mạnh của cả cộng đồng. Từ các mối liên kết kinh tế khu
vực sẽ tạo điều kiện cho các nớc hình thành các thị trờng thơng mại, đầu t, các
trung tâm công nghiệp khu vực. Từ đó sẽ làm hàng rào thuế quan và phi thuế quan
cản trở buôn bán nội bộ khu vực bị triệt tiêu, hàng hoá lu chuyển giữa các nớc
không bị hạn chế. Trong khu vực buôn bán tự do FTA, các nớc thành viên vẫn duy
trì hàng rào buôn bán riêng đối với các nớc thứ ba không nằm trong khu vực liên
kết. Những sản phẩm buôn bán trong khu vực FTA muốn đợc hởng u đãi phải đáp
ứng yêu cầu một tỷ lên nhất định đợc tất cả các nớc thành viên chầp thuận về xuất
xứ đợc sản xuất ở bất kỳ nớc thành viên nào. Trong gian đoạn liên kết này, các nớc
tham gia vẫn duy trì hàng rào buôn bán quốc gia riêng đối với nớc thứ ba.
Nh vậy xu hớng hình thành liên kết kinh tế khu vực của các nớc để ngăn chặn
sự tác động từ bên ngoài, tạo điều kiện ổn định kinh tế khu vực, ổn định thị trờng
để các nớc trong khối kinh tế có thể bổ sung cho nhau những thế mạnh của mình
về kỹ thuật, tài nguyên, lao động bảo đảm hiệu quả kinh tế trong trao đổi. Chính vì
vậy, vai trò của ngoại thơng, đặc biệt là xuất khẩu đều đợc các nớc hết sức quan
11
tâm, do không một quốc gia nào muốn bị gạt ra ngoài lề của dòng chảy phát triển,
nên phải xây dựng cho mình chính sách kinh tế, nhất là kinh tế đối ngoại, tạo lập
môi trờng thông thoáng để khuyến khích đầu t và buôn bán quốc tế. Do đó Việt
Nam không phải là trờng hợp ngoại lệ trong việc hội nhập kinh tế khu vực. Vấn đề
là phải lựa chọn tiến trình hội nhập ra sao để phù hợp với hoàn cảnh đất nớc đồng
thời phù hợp với xu thế toàn cầu hoá và liên kết kinh tế khu vực diễn ra ngày càng
mạnh mẽ trên thế giới.
1.2.2-/ Sự ra đời của AFTA
Lịch sử hình thành tổ chức ASEAN (The Association of South East Asia
Nations, 1967) trớc hết bắt nguồn từ lý do chính trị và an ninh khu vực vào thập kỷ
60. Trong bối cảnh tồn tại của cuộc chiến tranh lạnh và ở khu vực ASEAN đã thực
sự là một thực tế mang tầm cỡ quốc tế khiến thế giới phải quân tâm trên diễn đàn
chính trị thế giới. ở Việt Nam, cuộc chiến tranh đang diễn ra và một số nớc trong
khu vực bớc vào trận. ở Trung Quốccách mạng văn hoá ảnh hởng sâu rộng đến
đời sống tinh thần của cộng đồng ngời Hoa ở Đông Nam á. Trong khi đó, Liên
Xô cũ hình thành hệ thống an ninh tập thể Châu á Trớc hàng loạt thách thức
kinh tế chính trị của khu vực đồng thời phải giải quyết những khó khăn về sức ép
từ bên ngoài, nhu cầu liên kết khu nhằm tập trung sức mạnh tiềm lực để đối phó là
cần thiết với các dân tộc Đông Nam á.
Trong bối cảnh đó, ngày 8/8/1967, tuyên bố Băng Cốc đã đợc bộ trởng ngoại
giao của năm nớc: INDONESIA, MALAYSIA, PHILIPIN, SINGAPORE và
THAILAND ký kết. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á chính thức đợc thành lập.
Mời bảy năm sau 8/8/1984, BRUNEI là thành viên thứ sáu của ASEAN. Ngày
28/7/1995, Việt Nam gia nhập ASEAN. Đến năm 2000, Lào và MYANMA và
năm 2002 CAMPUCHIA tham gia vào tổ chức này nâng tổng số thành viên của
ASEAN thành 10 thành viên.
Từ năm 1976, vấn đề hợp tác kinh tế ASEAN đẫ đợc chú trọng trở lại với kế
hoạch hợp tác kinh tế mà lĩnh vực u tiên là cung ứng và sản xuất hàng hoá cơ bản,
12
các xí nghiệp công nghiệp lớ, các thoả thuận thơng mại u đãi và các quan hệ kinh
tế đối ngoại nh thoả thuận thơng mại u đãi PTA, kế hoạch hợp tác công nghiệp
ASEAN AIC, kế hoạch hợp tác từng khu vực BBC, liên doanh công nghiệp AIJV
Tuy đã cso rất nhiều nỗ lực để thúc đẩy hợp tác kinh tế trong ASEAN, nhng kết
quả của các nỗ lực đó không đạt đợc mục tiêu nh mong đợi. Đồng thời, vào đầu
những năm 90, môi trờng chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã có những thay
đổi quan trọng do chiến tranh lạnh kết thúc. ở kỷ nguyên hậu chiến tranh lạnh, vị
trí của ASEAN trong chiến lợc khu vực và quốc tế bị hạ thấp. Nên đến năm 1992
khi các nớc thành viên ASEAN ký kết một hiệp định về khu vực mậu dịch tự do
ASEAN AFTA (ASEAN Free Trade Area) thì hợp tác kinh tế các nớc ASEAN
mới thực sự đa lên một tầm mức mới.
Từ đây khu vực mậu dịch tự do ASEAN chính thức ra đời và đi vào hoạt
động. Bằng cách tạo dựng nền tảng thuế quan chung trong khuân khổ AFTA, các
quốc gia thành viên sẽ có thể tạo ra sự tơng hợp và phát huy đợc lợi thế so sánh
của mình trong quá trình tổ chức sản xuất và phân công lao động khu vực.
Tuy thế, sự ra đời của AFTA là kết quả phức hợp giữa sự tác động của các
nhân tố bên trong và bên ngoài sau:
Về nhân tố bên trong, có thể thấy rằng công nghiệp hoá trong hai thập kỷ qua
đã làm tăng nhanh chóng quy mô buôn bán lẫn nhau giữa các nền kinh tế AESAN.
Ngời ta tính rằng, vào đầu những năm 90, phần xuất khẩu nội bộ ASEAN trong
tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm nớc này đẫ đạt tới khoảng 20% và điều đó
chứng tỏ khuynh hớng liên kết thơng mại khu vực đã ngày càng trở lên mạnh mẽ.
Các nền kinh tế ASEAN mang tính hớng ngoại dựa vào xuất khẩu và hơn bao giờ
hết, chúng có nhu cầu bức thiết trong việc tìm kiếm và liên kết thị trờng, trớc hết
là các thị trờng láng giềng. Điều này càng đợc thúc đẩy nhanh hơn nhờ sự tác
động tích cực của tăng trởng kinh tế khu vực và các biện pháp tự do hóa thơng
mại. Các chính phủ của từng nớc ASEAN cũng đã thấy rõ sự trở ngại của chủ
nghĩa bảo hộ mậu dịch trong chiến lợc phát triển và đi đến đề xuất về một khu vực
mậu dịch tự do ASEAN nhằm tự do hoá thơng mại giữa các thành viên một cách
hiệu qủa.
13
Về các nhân tố bên ngoài, sự kết thúc chiến tranh lạnh và sự chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trờng của hàng loạt các nớc nh Trung Quốc, các nớc Đông Âu dẫn
đến các quốc gia ASEAN ngày càng có nhiều các đối thủ cạnh tranh mới về thu
hút đầu t nớc ngoài và thơng mại. Hơn nữa, trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, các
nền kinh t ế ASEAN còn phải đứng trớc những thách thức mới do sự xuất hiện của
những tổ chức hợp tác khu vực hơn hẳn về quy mô, tiềm năng và trình đọ phát
triển nh EU, NAFTA. Nói cách khác, trớc sức ép cảu chủ nghĩa khu vực với sự
xuất hiện của EU, NAFTA và những biến đổi của nền kinh tế thế giới theo hớng
ngày càng cso nhiều dấu hiệu làm mất đi lợi thế cạnh tranh đòi hỏi các nớc
ASEAN phải có sự thống nhất để đi đến những biện pháp thúc đẩy nhanh chóng
buôn bán nội bộ và tự do hoá quan hệ thơng mại giữa khu vực với các khối liên kết
kinh tế khác. Đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự cấp thiết thành lập
khu vực mậu dịch tự do ASEAN. Sự hình thành AFTA nhằm giải quyết hai mục
tiêu cơ bản: Thứ nhất, liên kết thị trờng khu vực với t cách là một trung tâm sản
xuất và thơng mại quốc tế nhằm cải thiện lợi thế cạnh tranh của ASEAN trong
việc thu hút vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài - một nhân tố đợc coi là động lực tăng tr-
ởng và tạo ra sự năng động của châu á trong những năm gần đây. Thứ hai, thôgn
qua AFTA, sẽ tạo điều kiện thúc đẩy các nớc thành viên tự do hoá thơng mại nội
bộ khu vực, xoá bỏ các rào chắn thơng mại, kể cả các biện pháp bảo hộ mậu dịch
tiêu cực nhằm rut ngắn quá trình hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
Tóm lại, xuất phát từ tổng thể các nhân tố bên trong và bên ngoài tác động,
AFTA ra đời đã trở thành một bộ phận hợp thành của xu thế tự do hoá thơng mại
rộng lớn ở khu vực châu á - Thái Bình Dơng và toàn cầu. Do đó, tạo lập AFTA
cho ASEAN cũng chính là tạo lập khu vực mở, một sự thích ứng cho sự phát triển
của ASEAN trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá.
1.2.3-/ Bối cảnh nền kinh tế Việt Nam.
Trên cơ sở thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phơng hoá và đa
dạng hoá, với tinh thần Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nớc trong cộng đồng
thế giới . Nên chính sách đối ngoại cũng đợc đổi mới, phù hợp với cải cách kinh tế
trong nớc và nhanh chóng hội nhập vào khu vực và thế giới.
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét